05-12-2013, 23:48
Khởi hành
Như vậy là sau hai đêm ở Lhasa, sáng ngày 13/11, 8h sáng chúng tôi khởi hành đi về phía Đông, khi mặt trời còn chưa lên khỏi dãy núi phía sau. Lần này xách đồ xuống nhanh chóng và chất lên hai chiếc Landcruise đã chờ sẵn.
Một xe có Tenzin đi cùng với Huy, và hai bạn nữ mà tôi tạm gọi là Chè và Tre, xe này bác tài tên là Samdup tuổi ngoài 40. Xe kia gồm tôi, Lymy, June và anh chàng mà tôi sẽ gọi là anh Đốc. Trong xe này có June đã đi Tibet và vùng Kham rồi, còn ba người mới toe. Bác tài là Keychak nhưng chả hiểu sao ngay từ đầu đã gọi thành Kitcha, và cứ thế gọi mãi.
Bác Kitcha / Keychak 55 tuổi, là bác tài rất tuyệt, rất chiều ý chúng tôi, biết một ít tiếng Anh và sau này còn thấy bác rất nhí nhảnh nữa. Bác không chỉ sẵn sàng dừng lại khi chúng tôi thấy cảnh đẹp và có ý muốn chụp ảnh, bác chỉ cho chúng tôi những chỗ đẹp, và chính bác cũng xuống chụp ảnh bằng chiếc điện thoại, hoặc chụp với chúng tôi. Ngoài ra bác còn là một người mộ đạo, vì vậy khi bước vào bất cứ tu viện đền thờ nào bác cũng đều hành lễ một cách thành kính, đến nỗi nếu chúng tôi muốn tìm hiểu thì chính bác sẽ là người thực hành ngay các nghi lễ một cách chân thực.
Bác đã không làm cho công ty của Lhapka, nhưng vì đề nghị của June mà Lhapka đã mời bác về người lái xe cho chúng tôi suốt chặng đường.
Hai chiếc xe nối đuôi nhau chạy ra khỏi thành phố Lhasa, chạy dọc ngược dòng sông Lhasa. Sông Lhasa từ phía Bắc chảy qua thành phố Lhasa rồi đổ vào dòng Yarlung Tsangpo.
Và giữa buổi sáng đầy sương, một bờ sông tràn cờ nguyện lấp lánh, khói đốt cành thông lan tỏa mặt sông
Tại đây tôi mua hai cuộn lungta, và chúng theo tôi suốt cuộc hành trình, về đến tận nhà. Tôi sẽ treo chúng ở nơi thích hợp.
Last edited by Chitto; 06-12-2013 at 13:01.
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Anh Chitto khoan hãy đi, để em kể chuyện đêm trước khi rời Lhasa cho mọi người nghe.
Lhapka mời chúng tôi về nhà ăn tối. Nhà của ông ấy nhỏ nhưng rất đậm chất Tạng. Vào nhà ngồi thấy một thứ duy nhất không tiệp mầu với những thứ trang trí khác trong nhà, đó là bức ảnh "tứ đại Kim Cang hiện đại" của chính phủ Trung Quốc, treo ở giữa nhà. Lhapka nói đây là boss.
Ông mời chúng tôi trà bơ. Vốn đang hào hứng với món trà bơ, chúng tôi chia cốc uống ngay. Lhapka lấy một cái bát gỗ có nắp bạc, ông ấy nói chỉ uống trà bơ trong chiếc bát ấy, chiếc bát đặc chất Tạng.
Món ăn bày ra ê hề, khai vị bằng món súp phomai béo ngậy. Lhapka giải thích rằng đây là món bắt buộc trong bữa tối, phải có món này thì người Tạng mới đủ sức khoẻ và dưỡng chất. Đúng thế thật. Chỉ một bát ấy thôi mà cả lũ chúng tôi, đứa nào đứa nấy, thay đổi ánh nhìn với món ăn còn lại... sao mà nhiều thế này!
Chuyện vui nhất là lúc bà mẹ của Lhapka xuất hiện, chào mọi người bằng tiếng Tạng, vì tất nhiên là bà ấy không nói tiếng khác. Đã quen nhau rồi, bà bắt Lhapka mang các loại RƯỢU có trong nhà ra mời khách. Để tỏ lòng hiếu khách, cụ bà người Tạng này đã tự tay đi rót rượu mời TỪNG NGƯỜI MỘT, với mỗi người bà đều cụng ly, CHAPTA, tiếng Tạng nghĩa là CẠN LY, rồi tự mình uống hết trước.
Những ly đầu tiên, tình hình vẫn được kiểm soát
Đổi loại rượu thứ hai...
- Cháu .... xin.... bà.....
- CHAPTA!!!!
Thế mới biết, say độ cao không phải là cái say duy nhất ở Tibet!!!
Đèo Chakla
Hai con Lancruise
Chúng tôi đi về hướng tu viện Reting, nên phải ngược lên hướng Bắc. Đầu tiên là vượt đèo Chak-la 4800m (chữ -la trong tiếng Tạng nghĩa là đèo).
Ngồi trong xe chụp ra.
Đỉnh đèo treo đầy cờ lungta và đầy tuyết. Lymy và Đốc lần đầu lên cao thế nên rất hào hứng.
Ảnh June chụp
Last edited by Chitto; 06-12-2013 at 13:00.
06-12-2013, 13:27
Cờ nguyện - Lungta
Những lá cờ nguyện - Lungta - chính là hơi thở của văn hóa Tạng. Đi nơi đâu thấy cờ nguyện bay thì dường như thấy không khi Tạng ở nơi đó.
Lungta nguyên nghĩa là con ngựa gió, linh vật chở những lời nguyện cầu lên trời xanh, hòa vào gió, tan khắp không trung. Ngựa gió không chỉ mang tâm nguyện của con người lên trời mà còn mang những điều tốt đẹp từ trời xuống thế gian. Lá cờ cũng vậy, lá cờ có in kinh Phật vừa là lời nguyện cầu của người Tạng đến chư Phật, vừa là lời ban phúc của chư Phật đến thế giới này. Lá cờ nguyện và con ngựa gió thần thoại dường như là một, bởi thế dù lá cờ nguyện có vẽ hình con ngựa gió hay không, thì vẫn được gọi là Lungta.
Có người phân biệt cờ treo ngang là Lungta, treo dọc là Darchor, tôi thì cứ gọi là Lungta cả.
Lungta xưa kia thuộc về đạo Bon. Đạo Bon chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, coi thế giới gồm năm nguyên lý: Đât - Nước - Lửa - Khí - Không và lấy 5 màu cơ bản để làm cờ đại diện. Khi Phật giáo hội nhập, thì 5 nguyên lý tương ứng với 5 vị Phật, 5 Trí tuệ của Phật. Rồi lại còn tương ứng với 5 vị Độ mẫu chuyên cứu độ loài người. Có loại Lungta in hình Phật, có loại in hình các linh thú chuyên chở kinh Phạt, và trên nền luôn là các bài kinh hoặc chú Mật tông:
1. Đất - màu vàng - Bất Động Phật - Độ Mẫu Lochana - phương Đông - con Hổ
2. Nước - màu xanh lam - Bảo Sinh Phật - Độ Mẫu Mamaki - phương Nam - Sư tử tuyết
3. Lửa - màu đỏ - A Di Đà Phật - phương Tây - Độ Mẫu Pandaravasini - chim Garuda
4. Khí - màu lục - Bất Không Thành Tựu Phật - Độ Mẫu Thanh Đala (Lục Độ mẫu, Green Tara) - phương Bắc - con rồng
5. Không - màu trắng - Đại Nhật Phật - Độ Mẫu Bạch Đala (White Tara) - Ngựa gió
Lungta được treo ở nơi núi cao, bờ sông, các khu đền,..., những nơi có gió. Mỗi khi gió thổi lungta bay lên, là những lời kinh, lời nguyện trải khắp không gian, hình ảnh của chư Phật, chư Độ Mẫu lại trải ra cho muôn vàn chúng sinh cảm nhận. Treo lungta vì thế trở thành cả một nghi thức tâm linh, vừa đơn giản lại vừa thiêng liêng.
Last edited by Chitto; 07-12-2013 at 13:52.
Đường đi
Từ đèo Chakla đi xuống:
Rồi đến một ngã ba. Đường bên phải phẳng phiu trải nhựa rất đẹp, theo Loney Planet thì đường đó đi tu viện Reting và Tildrum chỉ mất 3 tiếng. Theo kế hoạch đến đầu chiều là sẽ đến Tildrum và chơi ở đó cả nửa ngày còn lại.
Thế nhưng con đường đó phía trước đang làm không thể đi được. Xe buộc phải chạy vào đường bên trái là đường đất và vòng vèo rất xa. Thế là thay vì 3 tiếng, chúng tôi mất hơn 10 tiếng mới đến được nơi nghỉ. Ngày đầu tiên cũng là ngày chạy mệt nhất trong toàn bộ hành trình.
Bên kia hồ (do dòng sông tạo ra) là con đường ngắn và đẹp mà chúng tôi đã không đi được.
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Chính vì thế trên đây mới nhiều người nói câu: Hãy phượt trước khi nơi đó bị biến đổi và trở nên giống tất cả các nơi khác.
Khi các nơi có nền kinh tế chưa phát triển cao thì sự hòa nhập, hội nhập, thay đổi theo xu thế chung, hiện đại hơn, mất bản sắc hơn... là điều tất yếu, chúng ta cũng phải chấp nhận điều đó. Vì thế hãy đến đó sớm để thấy nó với bản chất chưa bị biến đổi nhiều.
Những nơi như châu Âu thì 50 năm nữa vẫn sẽ thế, Nhật Bản thì bản sắc văn hóa trăm năm nữa vẫn vậy, thiên nhiên phong cảnh nước Mỹ thì 200 năm nữa vẫn nguyên, đặc biệt thì Ấn Độ có khi nghìn năm nữa vẫn còn. Nhưng rất nhiều nơi khác sẽ không được như vậy.
Đây có lẽ cũng là điều khác giữa phượt và du lịch sang trọng !
Đường đi
Cảnh sắc hoang sơ của vùng đất này trải dài ra trên đường đi, khá khô cằn. Phía dưới xa có vài bụi cây nhỏ cằn cỗi. Có nước đấy, nhưng chỉ là dưới đáy thung, còn trên này đá sỏi không màu mỡ.
Từ đây xuống đến cái hồ kia xa tít, thế mà bên đường tôi thấy có cắm cái biển với hình vẽ Cấm Bơi to đùng ! Chả hiểu thật !
Một người chăn dê sạm đen vì nắng gió, chàng (tôi cứ gọi là thế) rất hot với chiếc áo sơmi đỏ chót, khoác bên ngoài tấm áo lông cừu của người Tạng.
Last edited by Chitto; 06-12-2013 at 17:36.
Reting monastery
1 giờ trưa chúng tôi mới đến được Reting, mất 5 tiếng cho một chặng đường được dự trù là 1 giờ rưỡi. Mùa này chỉ có mỗi chúng tôi. Bước vào căn bếp của tu viện, mệt và đói, nhưng cũng chỉ có mì ăn liền và nước sôi thôi. Ăn chút cho đỡ đói, may là có một đám chanh tươi mang theo nên vị của mì cũng ngon hơn.
Reting được khai phá bởi Đại sư Atisha (A-đề-sa) từ 1000 năm trước, là nơi khai mở 3 tông phái chính của Tibet là Gakyu, Sakya và Gelugpa, nên là một nơi rất quan trọng. Sau đó Reting thuộc phái Gelugpa. Tu viện trưởng Reting là một trong các Nhiếp chính khi các Dalai Lama mất chưa có người thay hoặc Dalai Lama mới còn bé, có quyền quyết định chính sự Tibet. Tu viện trưởng gần đây mất năm 1997 và TQ dựng lên một đứa trẻ là tái sinh của vị này, nhưng Dalai Lama 14 không công nhận.
Trong Cách mạng Văn hóa, tu viện đã bị phá hủy rất nhiều, chỉ còn lại một phần nhỏ. Còn hiện tại, để củng cố vị trí cho vị Rinpoche do mình dựng lên, TQ đang xây lại tòa chính điện rất hoành tráng, đồng thời có ngay một tòa nhà văn phòng bên cạnh cắm cờ đỏ chót, và đồn công an thì ngay phía dưới lối lên.
Ăn xong, chúng tôi dạo sang tòa tu viện nhỏ cũ còn sót lại, tòa chính thì đang xây nên không cho vào.
Ba chiếc stupa rất cổ, với hình dáng thô mộc chân chất, chứ không duyên dáng kiểu cách như những stupa khác.
Reting
Tu viện Reting nằm giữa một rừng thông cổ thụ hàng vạn cây. Những cây thông hàng trăm năm tuổi nhưng vì cằn cỗi khô lạnh nên không cao được, và thân thì vặn vẹo khắc khổ.
Một cây thông khô ngay trước lối lên; lối lên này mới tu sửa nên màu sắc tươi mới quá
Cái nhà đằng kia là của chính quyền, cắm cờ to vật, nhưng tôi xóa nó rồi !. Chúng tôi vừa đến một lúc là xe công an xịch đến ngay cổng để hỏi permit. Thật là vãi !
Re: Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Dalai Lama 14 đã từng nói nếu Người có cơ hội trở về Tây Tạng, nơi người muốn ở là Reting chứ không phải ở Lhasa.
Reting nằm trên một ngọn đồi bao phủ đầy thông vẫn xanh giữa mùa đông, hướng mặt ra thung lũng Rong- chu
Chính điện của tu viện
Khi xe bác Samdup bắt đầu rời khỏi cổng tu viện, cái xe cảnh sát chết tiệt cũng theo đuôi đi ra cổng, khói mịt mù trước xe chúng tôi
Nothing lasts forever
07-12-2013, 13:24
Reting
Toà điện nhỏ của tu viện Reting không cấm chụp ảnh, vì thế tôi chụp một số bức ở đây được tốt và ảnh đẹp hơn.
Gian điện không lớn, là phần còn lại sau khi bị Hồng vệ binh phá hủy, và cũng được tu sửa gần đây nên còn nhiều tượng đẹp, tranh tường thì có vẻ mới và được bảo vệ bên ngoài bởi một lớp plastic. Không biết bức thangka treo chính giữa điện là có từ bao giờ.
Nhìn ngược lên trần, có ba bức Mandala. Tôi không nắm hết ý nghĩa của Mandala và không chắc chắn lắm.
Theo tôi, bên phải là Mandala Thai tạng giới với biểu tượng của Phật Đại Nhật ở chính giữa, vòng tròn gồm 4 Phật và 4 Bồ tát tùy giá (nhưng ở đây có vẻ giống 8 vị Phật hơn), vòng vuông có 16 vị Độ Mẫu và Bồ tát, vòng ngoài nữa là các vị Minh vương, La hán,... Thai tạng giới Mandala là vũ trụ Bản thể đồng nhất của Chư Phật, trí tuệ của Chư Phật vô vi. Bên trái là Mandala Kim cương giới, với hình tròn lồng trong hình vuông rồi lại vòng tròn, với các tầng, các cửa, các pháp khí, các biểu tượng. Kim cương giới Mandala là thể hiện của các Bản thể, thể tính thành các pháp hữu vi.
Chính giữa là Mandala của Nội tâm, không có hình mà chỉ là những con đường quán chiếu của hành giả.
Bức thangka treo ở giữa, phía trên là Phật, bên dưới là hai vị, một là tu sĩ (có thể là Tông Khách Ba hoặc Dalai Lama), một cư sĩ (có thể là hình tượng của Duy Ma Cật - hóa thân của trí tuệ Phật), dưới nữa là các vị Độ mẫu (Tara), Không hành nữ, Minh vương, chư thần. Bức thangka lớn ở các tu viện không giống nhau, tùy thuộc vào trường phái và đường lối tu tập.
Hai con rồng hai bên là ảnh hưởng từ TQ khá rõ.
Last edited by Chitto; 07-12-2013 at 17:37.
Đường đi
3 giờ chiều chúng tôi rời Reting. Theo kế hoạch gì giờ này đã phải đến Tildrum và nghỉ ngơi chơi bời thoải mái rồi đấy, thế mà đường thì vẫn còn xa và xấu lắm. Trong đoàn có một người đã bị say xe do đảo lắc và đường xấu, mấy bạn nữ cũng thấy mặt xanh cả lại rồi.
Dòng sông dưới kia giờ đã chỉ còn là con suối nhỏ thế này, cảnh vẫn đẹp tuyệt vời
Trăng
Ở Tibet mùa này trăng mọc sớm và lơ lửng trên bầu trời gần như cả ngày. Gần 11 giờ trưa vẫn thấy trăng và chỉ hơn 3 giờ chiều là lại có thể thấy trăng.
Tôi gọi đây là ba người bạn: một Trăng, một Mỏm Núi, một Mây. Một một người tuổi đời hàng tỉ năm, một người vài triệu năm, một người chỉ có một ngày.
Trời dần tối mà đường vẫn còn xa, vẫn còn xóc. Khi bóng nắng tắt thì cũng đi vào vùng tuyết phủ. Tuyết không chỉ đầy trên hai triền núi mà còn đầy dưới đường, đóng thành băng. Bánh xe thỉnh thoảng trượt đi, mà vẫn chưa có dấu hiệu gì là sắp đến nơi.
Đường này không phải đường lớn, nên xuyên qua đất chăn thả của người dân. Thỉnh thoảng bác tài phải dừng xe xuống mở những cánh cổng chắn ngang đường thế này, và xe sau sẽ phải đóng lại.
Từ khi tia nắng cuối cùng sáng rực đỉnh núi
Đến khi bóng tối phủ xuống, ánh trăng vẫn chung thủy
Cuối cùng, khoảng 8 giờ tối chúng tôi đến được Tildrum, một khu làng ở độ cao 4560m. Vậy là 10 tiếng đồng hồ trên xe xóc như rang lạc, gần 400km, mệt mỏi rã rời.
08-12-2013, 17:26
Tildrum
Xe đỗ lại một chỗ mà Tenzin nói là "đến nơi rồi !". Tôi trèo ra, xung quanh có mỗi một cái nhà bé tí, bốn bề là núi và tuyết và gió. Chỗ quái nào thế này. Lúc này từ xe bên kia Huy cũng đi ra.
Tenzin dẫn hai thằng ra cuối con đường. Thì ra đây là đỉnh một con dốc mà ở dưới đáy dốc mới là làng Tildrum. Đường xuống bé và trơn trượt nên xe chỉ đỗ ở đây thôi. Nhìn xuống thì Tildrum là một khu dân cư với những ngôi nhà được xây kiên cố nằm dưới một khe núi. Tenzin và hai chúng tôi đi xuống để tìm chỗ nghỉ, tôi moi đèn pin ra để soi đường. Trước khi xuống dặn mọi người chỉ lấy đồ cần thiết vì không thể vác vali lên xuống xa thế được.
Vừa xuống được chục bước thì tôi trượt đánh oạch ! Con dốc trông thì bình thường nhưng đã bị phủ một lớp băng trơn tuột, phải đi vào vệ đường mới xong. Xuống đến làng mất hơn trăm bậc thang, lại leo lên xuống trong đó để đến một nhà nghỉ mới làm xong, mùi sơn còn mới. Tôi nhìn quanh chả thấy WC đâu cả, hỏi thì bảo đi ra bên ngoài, đi ra ngoài tìm mãi cũng chả thấy đâu, lại vào lôi bà chủ nhà. Bà ấy dẫn lên phía trên đồi, băng qua sân tu viện, rồi chỉ vào phía sau: Toillet đấy ! Một cái chòi không có cửa trống hoác há miệng hố nhìn ra. Thế này mà đêm có nhu cầu chắc chết rét. Tôi đòi tìm chỗ khác. Cuối cùng cái nhà ngay chân dốc lại khá hơn, với WC ngay tầng 1 và tuy không có cửa nhưng có tường chắn ngang kín gió (còn WC của Tạng thì.... bạn nào đi thì biết rồi đó, khỏi kể luôn ăn cơm mất ngon).
Leo ngược lên xe để thông báo cho mọi người mới gọi là mệt, vì ở độ cao đó, nhiệt độ thấp, lại sau một ngày mệt mỏi, trưa chỉ có nửa cốc mì. Các bạn đi xuống lại có thêm hai màn dập đít vì đường trơn. Vào được căn phòng có chăn đệm và điện là tốt lắm rồi, dù phòng lạnh băng, nhiệt độ bên ngoài dưới 0 thì trong phòng cũng chỉ vài độ.
Cái khăn mặt thấm nước nóng để lau mặt phơi ra ngoài một lúc, sờ đến thì đã thành một mảnh nước đá đông cứng rồi.
Last edited by Chitto; 08-12-2013 at 17:39.
Buổi tối
Chúng tôi nhờ được chủ nhà nấu cơm, xin được ít rau cải, và mở hộp mắm tép chưng thịt. Rau cải bẩn vì đất, Lym múc một chậu nước ra, tôi thả rau vào rồi nhúng tay vào rửa. Tôi giật phắt như phải bỏng. Nước lạnh buốt ập vào tay làm đau buốt. Cứ cố rửa được chục cọng là phải hơ tay trên bếp rồi cố tiếp. Sau cùng thôi, chịu, lấy đũa ngoáy vào chậu nước như điên chứ rửa ráy gì. Ăn bẩn mặc kệ, không chết được chứ tay mà rụng thì lấy gì bốc ăn?
Chậu nước tôi hắt ra ngoài, lúc ăn xong quay lại thì đóng thành vũng băng.
Anh chị em xì xụp bên nồi canh nóng cải nóng, thật không gì ngon bằng.
Buổi tối nặng trĩu âp xuống, quấn thêm túi ngủ vào trong, ngủ được một mấy tiếng lại tỉnh dậy, nghe thấy xung quanh cũng những tiếng thở khó nhọc và tiếng trằn trọc. Ngủ lại được một lúc lại bị dậy vì mũi tịt hết cả lại. Thò mũi ra ngoài chăn thì lạnh, mà đút trong chăn thì ngạt, kiểu gì cũng khổ. Đó là đêm khó ngủ nhất với tôi và cả đoàn.
Trời chưa sáng, tôi dậy chui ra ngoài. Cửa sổ đóng băng, bên ngoài mặt trời chưa lên tối mờ mờ. Phía tu viện bên kia có khói tỏa mềm mại. Bên dưới là một dòng suối nước chảy rào rào. Nước suối chảy nên không đóng băng được.
Tại sao chúng tôi lại mò lên cái nơi vừa cao vừa rét này, là vì một thứ rất thú vị nơi đây !!!
Hot spring
Điều khiến chúng tôi lặn lội lên tận nơi đây chính là vì ở đây có : SUỐI NƯỚC NÓNG !
Suối khoáng nóng Tildrum cùng tên với Ni viện Tildrum, nằm ở nơi có độ cao rất lớn quả là một món quà đặc biệt của nơi đây.
Sáng sớm mò ra ban công nhà trọ, tôi cố tìm dấu hiệu của suối nước ở dưới thung lũng, mà Tenzin bảo gần lắm. Và thế là, haizzz, hơi bất nhã chút, tôi thấy thế này:
Ngay dưới những mỏm đá đầy tuyết là một hồ tắm nhỏ với những người Tạng hồn nhiên tắm tiên. Một mình mò xuống thử xem thì thấy nam có khu tắm riêng, nữ có khu riêng, và một bồn bên suối thì lúc nam lúc nữ thay phiên. Tất cả đều tắm tiên hết. Mò lên nhà trọ hộc cả hơi thông báo cho các bạn, có thêm 4 bạn hào hứng chuẩn bị.
Tôi và Đốc xuống trước, vì ngại nên không mang máy ảnh, nên không có ảnh chỗ này. Chỗ tắm cho nam là một bể tròn đường kính khoảng 4m, xung quanh xây tường đá, sâu đến ngang ngực. Một phía có treo bức tranh Liên Hoa Sinh, có vài quả táo cúng cắm ở ngay đó.
Lúc tôi xuống thì có hai người Tạng vừa lên, họ rất đơn giản là trùm cái hai lớp áo lông cừu lên người rồi xỏ giày và đi về thôi, hehe. Tôi lao xuống trước, nước tuyệt vời, độ nóng rất vừa, rất trong, thế là tôi ngụp lặn tưng bừng. Đốc thì kêu nóng quá, mãi không ngụp xuống được.
Lúc đó lại có hai anh chàng Tạng đi ra, không xuống tắm mà ngồi trên chỉ trỏ. Khi phát hiện chúng tôi không biết tí tiếng Tạng, tiếng Hán nào, họ lại càng tỏ ra hào hứng và cổ vũ khi tôi bơi lội rồi ngụp lặn xuống dưới. Mãi về sau mới có một anh chàng bỏ đồ ra lội xuống, và sau đó anh chàng chỉ cho tôi cách lễ Liên Hoa Sinh: Đó là phải chắp tay lặn xuống sờ vào khối đã dưới đáy hồ tắm, càng lâu càng tốt.
Tắm táp thỏa thuê, vô cùng sung sướng, chúng tôi kéo lên phòng chuẩn bị rời khỏi Tildrum. Những ai tóc dài thì tóc đóng lại thành băng cả !
Tạm biệt Tildrum, nơi để lại cho tôi một kỉ niệm thú vị: Tắm tiên ở độ cao 4560m, trong cái lạnh dưới 0 độ !!
Đường đi
Rời Tildrum, do bị muộn so với lịch trình dự kiến nên không ghé qua Driyung nữa. Bên đường có một dòng thác bị đóng băng rất đẹp, bên dưới lớp băng nước vẫn tuôn chảy.
Lúc này chúng tôi đã rời khỏi dòng sông Lhasa và đi về phía Đông. Không còn rừng thông của vùng Reting, thay vào đó là nhữn bụi cây nhỏ, và núi vẫn lấp lánh tuyết.
Đường lại leo dần lên, Đốc hồ hởi kêu lên "lũ chấy rận, ôi lũ chấy rận !!!" Đấy là cách gã gọi đám yak trông bé tí trên núi tuyết
09-12-2013, 21:09
Đèo Parla
Đường lên cao tiếp, xung quanh núi tuyết trải mênh mông. Chúng tôi đến đèo Par-la, đèo cao nhất trong hành trình phía Đông với độ cao 5013 m. Lại một màn nhảy tưng tưng và làm đủ trò. Chỗ này rét lắm, nên cũng một lúc lại chui vào xe thôi.
Tốc độ
Cung đường này hạn chế tốc độ, nhưng các bác tài vẫn đi khá nhanh. Các bạn TQ kiểm soát tốc độ bằng cách tính thời gian vào và ra một cung đường, nếu quá ngắn thì tức là vi phạm tốc độ. Vì thế đến gần điểm tính thời gian thì các xe dừng lại chờ thêm 40 phút rồi mới chạy tiếp.
Trong lúc chờ đợi đi bắn phá được ít ảnh
Qua khỏi trạm thì đường lại chạy men theo một dòng sông khác, sông này đổ vào Yarlung Tsangpo ở phía Đông. Dòng sông này và chi lưu của nó cho chúng tôi nhiều góc ảnh rất đẹp, những ảnh đẹp nhất do người khác chụp nên tôi chỉ có gọi là giới thiệu thế này thôi:
Chuyện gay cấn ở Laksum-tso
6h chiều, hai xe đến cửa Laksum-tso, hồ thiêng ở phía Đông Tibet. Theo kế hoạch chúng tôi sẽ ngủ ở nhà nghỉ cạnh hồ.
Nói thêm rằng đi dọc đường, khi đến thị trấn huyện lỵ, Tenzin đã phải làm việc với công an thị trấn để xin phép được ngủ ở các khu vực cho đoàn (xin phép trước từ rất xa, chứ không phải đến đó mà xin, bị đuổi là thường). Thế mà khi đến thì gặp chuyện.
Số là cạnh hồ chỉ có 1 khách sạn, mà nó lại đang tu sửa nên đóng cửa. Mà theo quy định thì khách nước ngoài buộc phải ngủ ở khách sạn, nay không có khách sạn nữa, nên gã cảnh sát ở đó nhất quyết đuổi cả đoàn đi, dù Tenzin nói rất rõ là công an huyện đã đồng ý cho ngủ nhà trọ rồi. Nhưng không là không, gã cương quyết bảo đoàn phải về thị trấn huyện lỵ Nyingtri mà ngủ - nơi ấy cách đây có chừng 200 km thôi !!!
Dù cả lũ đã tạo những bộ mặt thiểu não nhất có thể, Tenzin nói dài nhất có thể, vẫn không lay chuyển nổi.
Lúc đó người hùng của đoàn xuất hiện. Ai đây: chính là bác tài của chúng tôi: bác Keychak (mà chúng tôi vẫn gọi là Kitcha).
Bác nói gì đó với bác tài Samdup, thế rồi cả hai lôi ra cơ man nào là đồ nghề sửa xe, rồi bác Keychak chui xuống gầm xe đập và vặn một cái gì đó ở bánh trước. Ốc vít cờ-lê cứ gọi là huy động cả. Có mấy gã rỗi hơi ở gần đó cũng đứng lại xem, họ nói với nhau những gì tôi chịu, nhưng cứ được hiểu rằng: Cánh này trục trặc rồi, hỏng rồi, đi xa nữa là nguy hiểm lắm, chết như chơi đấy.
Lũ chúng tôi nói nhau cũng tạo vẻ mặt rất chi là hốt hoảng !
Mặt gã công an nhăn như khỉ. Tình huống gay cấn. Gã buộc lòng rút điện thoại gọi cho cấp trên, và sau rất lâu trao đổi, gã cau có quay lại thông báo: Chúng mày được nghỉ lại ở khách sạn ngoài cổng hồ, nhưng đêm cấm đứa nào bước ra khỏi khách sạn, và Tenzin phải đi với tao làm thủ tục.
Hoan hô bác Kitcha của chúng tôi !
Bên ngoài hồ
Thì ra bên ngoài hồ cũng có một khách sạn hai tầng to đùng của TQ xây, biển có cả tiếng Anh, trong sảnh ghi tiếng Anh, nhưng chả hiểu sao lại không cho người nước ngoài ở ??
Sau khi nhét chúng tôi vào đó, với phòng tiêu chuẩn, phòng tắm có cả đèn sưởi nhưng lâu không ai ở, nước xả ra phải 30 phút mới bắt đầu nóng, Tenzin phải đi đến cả tiếng. Quay lại dẫn chúng tôi đi ăn, Tenzin bảo: Bọn nó bắt tao phải lăn tay vào đống giấy cam kết cam đoan là chúng mày không đi đâu ra ngoài, tổng cộng 20 cái giấy !!!
Tôi bảo Tenzin: Sao mày không cởi giày ra dùng cả ngón tay ngón chân mà lăn cho nhanh?
Rút cục vì sự vụ gay go trên, đó là ngày duy nhất trong cuộc hành trình mà chúng tôi tắm những 2 lần: Sáng suối nóng và tối là bình nóng lạnh. Sao đời lại oan trái thế hở giời !?
Ráng chiều - trong lúc bác Kitcha sửa ôtô
Và cái khách sạn ngang trái - sáng hôm sau
11-12-2013, 00:24
Basum-tso
Basum-tso hay Draksum-tso là một hồ thiêng, đặc biệt là phái Nyingmapa (Ninh Mã). So với ba hồ thiêng phía Tây (Namtso, Yamdok, Manasarova) thì hồ này nhỏ hơn hẳn, và vì nằm ở độ cao thấp hơn nên màu nước cũng không đặc biệt như các hồ kia.
Giữa hồ có hòn đảo nhỏ Tashi, trên đó có tu viện Tsozong của phái Ninh Mã.
Trước cửa tu viện Phật giáo nhưng lại có hai tượng gỗ rất lạ, nếu không muốn nói là quái đản
Để phần nào lý giải những hình tượng này (và tiếp nữa), có lẽ lại phải lan man sang câu chuyện của phái Nyingmapa...
Nyingma-pa
Thời kỳ Phật giáo bắt đầu phát triển ở Tibet vào những năm 750, Đạo sư Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) và Tịch-hộ được coi là Tổ sư đã truyền giáo cho tu sĩ Tibet. Để giáo hóa người dân nhiều đời theo đạo Bon, Liên Hoa Sinh đạo sư đã phải dùng rất nhiều cách thức truyền đạo, đấu cả trí và lực, dùng thần thông để đánh bại các giáo sĩ đạo Bon, đưa Phật giáo đi khắp nơi.
Để hòa nhập, Phật giáo do Đại sư Liên Hoa Sinh giảng dạy có rất nhiều yếu tố huyền bí, kết hợp với các hình tượng thần đạo Bon; và cũng để phù hợp, có hai dòng tu đều được chấp nhận: dòng tu sĩ ở tu viện độc thân, và dòng cư sĩ ở nhà được lấy vợ có con, đều được truyền giới, quán đỉnh. Trường phái được truyền bá đó thuộc Mật Tông - Kim cương thừa, hay còn gọi là Cổ Mật (Nyingma).
Trăm năm sau, vị vua thứ 41 của Tibet tiêu diệt Phật giáo, giới tu sĩ gần như bị giết sạch, chỉ còn rất ít vị chạy thoát vào núi. Lúc này giáo pháp của Liên Hoa Sinh đạo sư chủ yếu do giới cư sĩ lưu giữ và truyền bá. Đến khi Phật giáo hưng thịnh trở lại thì những tư tưởng Mật tông trong dòng truyền qua giới cư sĩ khá mạnh, có nhiều kết hợp và chuyển hóa kì lạ, tạo nên những hình tướng chưa bao giờ có trong Phật giáo nơi khác. Những hình tượng kì lạ như tôn thờ sinh thực khí, tôn thờ các hình tượng dữ tợn kinh khủng với đầu lâu, cốc máu, với tượng yam-yum (nam nữ ôm nhau) dường như đều từ trường phái này, và được giải thích bởi những triết lý Mật giáo huyền bí.
Khi phái Gelugpa do Tông Khách Ba đại sư - nhà đại cải cách lập ra, đã giảm và loại bỏ nhiều các yếu tố biến đổi này. Vì thế bước vào tu viện của phái Gelugpa khác hẳn với tu viện phái Nyingmapa. Còn hai phái Sakyapa và Kagyupa thì tôi chưa vào tu viện nào nên chưa nhận xét được.
Padmasmabhava
Đại sư Liên Hoa Sinh là nhân vật lịch sử truyền bá Phật giáo - Mật tông ở cả một vùng Bắc Ấn - Nepal - Tibet vào thế kỉ thứ 8. Là vị Sư tổ truyền đạo cho tu sĩ Tibet, nên tại đây ngài được tôn sùng một cách cực độ, và truyền thuyết về ngài trở thành niềm tin chính thống trong cộng đồng Mật tông đến nỗi không thể tìm được cứ liệu lịch sử thực sự về thân thế của ngài.
Theo niềm tin Mật tông, Liên Hoa Sinh đại sư là ánh sáng của Phật A Di Đà chiếu rọi vào bông sen sinh ra nên gọi là Liên Hoa Sinh, ngài cũng đã được Phật Thích Ca nói trước là đấng sẽ còn hoàn thiện hơn giáo pháp. Liên Hoa Sinh theo học tất cả các đấng trí tuệ nhất trong các cõi: Từ vị Phật Nguyên Thủy - A Tú Như Lai, học Anan là đại đệ tử của Phật Thích Ca, học các vị Phật, Bồ tát, các Đạo sư, Độ mẫu, Minh vương, và ngài nắm được tất cả các tri kiến đó. Trí tuệ của Liên Hoa Sinh trở thành tối thượng trong mọi cõi nhân và phi nhân, thiên và phi thiên; và giáo pháp mà ngài đặt ra là tối thượng: giáo pháp Mật tông.
Liên Hoa Sinh thời chưa đi tu có 500 bà vợ, sau này tu tập rồi cũng phối ngẫu với một bà người Ấn và một bà người Nepal trong mục đích quán đỉnh tối thượng du già, ngài giác ngộ cho tất cả các loại chúng sinh huyền bí của Tibet, từ các chư thiên, các vị thần, các ma quỷ, súc sinh, và con người.
Liên Hoa Sinh là đấng vĩnh hằng, thị hiện ở cõi Sabà trong hàng nghìn năm, thể hiện mình qua 8 hóa thân, hoặc 8 thể tính linh diệu, mà người Tibet thể hiện qua 8 pho tượng.
Như thế phái Nyingmapa tôn thờ Liên Hoa Sinh đại sư còn hơn cả Phật Thích Ca, hơn cả các vị Phật khác. Trong điện thờ Nyingmapa, Tượng Liên Hoa Sinh bao giờ cũng to nhất và đặt chính giữa, tượng Phật khác nếu có cũng chỉ thờ phụ hai bên. Hai bên vách điện luôn có tượng 8 hóa thân của ngài.
Liên Hoa Sinh đại sư tại Tibet luôn có ria xoắn, đôi mắt to tròn soi chiếu thẳng vào tâm người đối diện, đội mũ cao. Tay phải ngài cầm kim cương chử, tay trái cầm cái cốc sọ người đựng máu, có một cây lao xiên một dây đầu lâu tựa vào vai trái. Thường có tượng hai bà vợ đứng hầu hai bên.
Skullcup
Tu viện Tsozong không chỉ không được chụp ảnh bên trong mà còn không được đi giày dép trên sàn. Nhưng trời lạnh quá, nên ở đây rất lịch sự là để sẵn hàng trăm túi nylon mỏng để khách bọc ra ngoài giày.
Vừa vào điện, bác Keychak lễ sụp xuống trước tượng Liên Hoa Sinh mấy lần. Rồi bác đến bên bàn cạnh đó bốc một chút bánh tròn tròn ăn và múc một ít nước trong cái giống cái bát bên cạnh đó uống.
Tôi ra nhìn kĩ thì cái thứ mà bác uống nước có hình tương tự thế này (tương tự vì ảnh này chụp ở nơi khác)
Đó là cái bát làm bằng ĐẦU LÂU NGƯỜI.
Trong Mật giáo thì cốc đầu lâu là một pháp khí quan trọng, chứa đựng trí tuệ nhận thức. Các thành phần xương, máu, não đều là tinh túy và thể hiện của thức. Do đó cái bánh bột nặn hình óc người, nước để trong đầu lâu. Các cao tăng khi mất có 3 hình thức: Thiên táng, hỏa táng, tháp táng. Tháp táng chỉ dành cho các Dalai Lama, các Lama được thiên táng thì hàng trăm hàng nghìn người mới có 1 người được lấy đỉnh sọ ra làm cốc nước thiêng trong các tu viện.
Cái cốc sọ người trong các tu viện được nạm vàng ngọc xung quanh, và có tuổi đã hàng trăm năm.
Tôi bốc một ít bột bánh ăn thử - không có vị gì. Và ngần ngại không dám uống nước trong cái cốc kia. Cuối cùng lấy chiếc lọ nhỏ mang theo múc một ít nước bỏ vào đó. Cái lọ đó về sau còn nhiều nước ở nơi khác nữa.
Green Jade
Hồ Basum-tso còn một tên khác trong tiếng Tạng nghĩa hồ nước xanh ngọc. Cũng phải nói rằng hồ không đến nỗi đẹp lắm như ca ngợi, chỉ là hòn đảo tạo thành điểm nhấn độc đáo thôi.
Basum-tso
Leo lên cao để ngắm toàn cảnh
Chuyện
Có hai câu chuyện nhỏ ở đây.
Một là khi đi vào thăm hồ, tất cả 7 người phải dồn lên 1 xe, còn Tenzin ngồi một xe thênh thang với bác tài Keychak. Đó là vì Tenzin bảo với công an TQ ở đó là: Cái xe hỏng kia đi rất nguy hiểm, tao không thể để những quý khách kia gặp nguy hiểm được, tao đành phải chịu rủi ro ngồi lên cái xe hỏng này.
Và thế là suốt cả buổi hôm đó Tenzin "phải đi cùng xe hỏng", cho đến khi ra khỏi cả khu vực đó, cách cả hai chục cây số rồi mới xuống đổi xe.
Hai là trong đoàn ai cũng có vẻ rất yêu quý chó, nhất là nếu chó ngao Tạng nữa thì càng thích. Đau buồn là trong 7 người thì có mỗi tôi là có ăn thịt chó, vì thế được các bạn rất chi là xỉ vả vì tội có thể ăn được con vật đáng yêu như thế. Chè và Tre còn mang cả thức ăn cho cún để gặp cún là cho ăn cơ mà.
Nhưng, rốt cuộc là với những con cún to và có vẻ hung dữ nhất thì tôi lại luôn là người rất dễ dàng và nhanh chóng làm quen, chơi với chúng. Lúc đầu chúng cũng gầm gừ hăm dọa, nhưng chả biết vì sao chúng rất mau tin tưởng tôi, sau một lúc là ngửi tay hít chân, rồi sẵn sàng cho tôi gãi cổ, rồi chồm cả lên người, rồi lăn ngửa hết cả ra ư ử.
Thấy con chó ngửa ra sung sướng, Tre bảo : thế là nó tuân phục anh rồi đấy.
Tôi bảo: Chắc tại vì anh có ăn thịt chó !!???
Cảnh sắc
Khó nói hết cảnh sắc dọc cung đường này, mùa đông dường như lại làm thiên nhiên màu sắc hơn
12-12-2013, 20:52
Đi Bayi
Rời hồ Basum-tso, chặng đường đẹp dẫn chúng tôi đến gần Bayi, thành phố thủ phủ của Nyingchi. Bữa trưa đến lúc 3 giờ, với một con cá to nấu kiểu TQ.
Theo kế hoạch chúng tôi sẽ đến làng Tashigang ngủ trong làng. Nhưng khi Tenzin sau khi đi cả tiếng quay lại bảo: Chúng mày không được ngủ trong làng, chỉ được ở thành phố, thị trấn nơi có khách sạn thôi, bọn công an ở đây rất cương quyết !
Nyingchi là tiếng Tạng, Hán phiên âm Lâm Chi, là thành phố do TQ thành lập. Nơi đây khá quan trọng vì là ngã ba đường. Tên Bayi là tên hoàn toàn TQ, nghĩa là Bát-Nhất, tên của Quân đội TQ.
Bayi
Buổi chiều lang thang một góc gần bờ sông của Bayi. Thành phố TQ này cũng giống các thị trấn TQ khác thôi, với nhà hộp, đường to, đèn xanh đỏ, và nhiều nhà đang xây dựng. Phố xá có người Tạng, người Hồi, và khu chợ bán rau xanh bên đường thì người bán đều là Tạng và Hồi. Người Hán thì vào các khu chợ khang trang hơn.
Ở góc phố chúng tôi thấy ba quán trà Tạng ở ngay cạnh nhau, thích quá muốn chui vào ngay. Nhưng lạ là hai quán thì không có bất kì khách nào, quán còn lại thì người Tạng ngồi kín tất cả các chỗ, không còn ghế nào trống. Ngồi giữa quán trống toác thì còn nghĩa gì, mà quán kia không còn chỗ, đành phải về.
Chợ Bayi, đằng sau khu này là mấy khu phố buôn bán sầm uất, xem ra cái gì cũng có
Nắng vàng trên ngọn phong
Một đoạn đường gần Bayi
Tối đó ngủ giường có đệm sưởi, phòng tắm nóng lạnh ngon lành. Lại phải hưởng thụ thôi cho đỡ phí tiền.
14-12-2013, 21:37
Lên đường
Sáng hôm sau, như mọi sáng, lại lên đường khi nắng bắt đầu chiếu xuống thung lũng.
Trong làn sương sớm, cảnh vật mỗi hôm mỗi thay đổi khiến cung đường thực sự tuyệt vời.
Xa xa là một tu viện theo phái Nyingma
Shekhym-la
Rời Bayi không lâu, đường lại leo ngược lên. Bác tài Keychak tâm lý dừng lại những nơi có view rộng, nhưng bóng núi vẫn còn trải rộng nên nhìn không được rõ.
Cuối cùng đã đến đỉnh đèo Shekhym-la cao 4600 m. Con đèo không phải quá cao, nhưng nó nhìn thẳng sang dãy Namche Barwa.
Đỉnh Namche Barwa hơn 7700m thường khuất sau mây mù. Có câu rằng chỉ khi nào núi vui vẻ thì mới để cho người ta chiêm ngưỡng, có lẽ hôm nay Namche Barwa rất vui ???
15-12-2013, 16:44
Treo lungta
Với tôi thì lungta dường như là hơi thở người Tibet, thế nên chúng tôi cũng muốn được thở cùng hơi thở đó, bằng cách treo lungta.
Ngay khi rời khỏi Lhasa từ mấy ngày trước, chúng tôi đã có mua mấy cuộn lungta, mỗi cuộn gồm hàng chục lá cờ, nối với nhau dài vài mét. Lần này lên đỉnh đèo sẽ treo lên, nhưng vẫn phải nối với nhau thành cả một dây dài hơn chục mét. Hai bác tài và Tenzin nhiệt tình giúp đỡ đến mức June phải kêu lên "để tôi để tôi", vì chỉ sợ các bác ấy làm hết việc thì đâu còn gì là mình đi treo nữa?
(Ảnh máy của June)
Treo lungta là phải thật căng, không để chùng:
Anh chàng Tenzin
Đổ bóng
Shekhym-la
Toàn cảnh đèo Shekhym-la (by June)
Và, lần đầu tiên cả nhóm mới chụp, với bác tài và guide
Namche Barwa & Gyala Peltri
Đi một đoạn thì ngắm được cả đỉnh Namche (Namcha) Barwa (7782m) phía bên phải và đỉnh Gyalha Peri (7294 m) phía bên trái
Lúc này ven đèo xếp rất nhiều những đống đá nhỏ
Ngay dưới chân của Namche Barwa là khúc quanh nổi tiếng của Yarlung Tsangpo, nơi người ta nói từ đỉnh đến đáy là 5000m, khoảng chênh lớn nhất thế giới của một địa hình. Trong lịch trình có dự định đến khúc quanh này, nhưng thực ra để đến đây phải đi trek mất 4-6 ngày trong khu vực hoang vu, nên không khả thi.
Dãy chính Himalaya được tính từ phía Tây là sông Ấn (Indus) đến phía đông chính là khúc quanh của sông Yarlung Tsangpo, như vậy rặng Namche Barwa là điểm cuối phía Đông của rặng núi chính Himalaya. Những phần khác chỉ được coi là phần mở rộng, nối dài của Himalaya thôi. Và Namche Barwa là đỉnh cao cuối cùng của Himalaya trước khi thoải dần xuống đồng bằng.
Đỉnh Geylha Peri tuy trông giống như nối với Namche Barwa vì cùng hướng với nhau, nhưng thực chất lại không cùng hệ núi. Trong khi Namche Barwa thuộc dãy Himalaya thì Peri lại thuộc dãy Dhaulagiri. Trước đây tôi vẫn nghĩ Himalaya là toàn bộ vùng núi cao trập trùng này, té ra không phải như vậy. Himalaya chỉ là dãy núi cao nhất kéo dài từ Tây sang Đông nhưng khá hẹp theo chiều Nam-Bắc.
Last edited by Chitto; 15-12-2013 at 22:12.
Mani stone
Trong tôi, nếu như lungta là hơi thở của Tibet, thì những tảng đá mani là lời thì thầm của Tibet, vọng qua nghìn năm và sẽ còn mãi đến tương lai.
Người Tibet không chỉ viết những lời kinh Phật lên lungta để bay theo gió tan vào không gian vô tận, mà còn lưu giữ những câu chú thiêng liêng bằng cách tạc vào đá, và đá đó gọi là đá mani. Mani nguyên nghĩa là viên ngọc ước, viên ngọc như ý của chư Phật cầm, thể hiện sự đại định đã đạt đến cảnh giới cõi không.
Đá mani hầu hết đều khắc câu chú thiêng liêng nhất, tương truyền là thần chú của Quán Thế Âm bồ tát: Ommanipadmehum. Câu này có khi được tách thành 6 âm Om-ma-ni-pad-me-hum, Hán phiên là Úm-ma-ni-bát-mê-hồng, gọi là Lục tự đại minh thần chú. Cũng có lúc được tách thành 5 âm: Om-ma-ni-padme-hum để ứng với Ngũ trí, Ngũ Phật, Ngũ phương.
Ý nghĩa và sức mạnh của đại thần chú này là cả một chuyện dài. Người Tibet tôn sùng thần chú này, và luôn muốn nó trường tồn với tự nhiên. Mỗi khi nhìn thấy tảng đá mani, tôi lại nghĩ đến những người đã khắc lên nó. Đây chính là những lời thì thầm của họ đang nói với tôi, với tất cả chúng sinh, và nguyện cầu với chư Phật.
(by June)
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Cũng quên mất không trả lời bạn Joele: Người nước ngoài thì ngủ ở các thành phố, thị trấn lớn thoải mái mà. Ở các nơi đó có những khách sạn được phép cho khách nước ngoài ngủ. Trên đường đi có các chốt chặn (tổng hành trình đi về chúng tôi bị kiểm tra khoảng hai chục lần), nếu ngủ ở các thị trấn thì đơn giản hơn.
Đoàn chúng tôi gặp khó khăn vì toàn muốn ngủ ở những nơi không phải thành phố, thị trấn lớn. Có mấy đêm đều hỏng kế hoạch vì thế. Mong muốn ngủ ở ven hồ, ở trong làng, ở tu viện, ở thị trấn nhỏ... đều bị ngăn cản.
Tashigang
Qua đèo Shekhym-la không xa là làng Tashigang, một ngôi làng rất đẹp, trong làng có nhà nghỉ. Chúng tôi đã muốn ngủ ở đây, nhưng không được phép. Trước 2008 thì mọi việc dễ dàng hơn rất nhiều.
Đến làng, buồn buồn vì nhà nào, cổng nào cũng phải treo cờ TQ đỏ choe choét. Nói thế thôi chứ có những lá cờ được cắm chắc đã rất lâu, bạc phếch và rách bươm nhưng cũng không ai thay.
Tenzin bảo: Phía trước có một chặng đường 60km đường rất xấu, đang sửa và có thể cấm đường. Có những lần cấm đến 6 tiếng. Vì thế phải đi ngay đề phòng bị cấm đường. Chúng tôi đành rời ngôi làng và hẹn chặng đường về (cũng phải đi ngược lại đây mà).
Đường đi
Rời Tashigang, đường cũng rời khỏi dòng Yarlung Tsangpo, dòng này ngoặt về Nam để chảy sang đất Ấn Độ, hội với sông Hằng rồi đổ ra biển. Còn chúng tôi lại theo một chi lưu của Yarlung Tsangpo mà đi về phía Đông.
Đoạn đường xấu đã đến. Chỗ này vốn không phải là đường xấu lắm, nhưng vì hiểm trở, một bên vách núi cao, một bên dòng sông sâu, nên đường hẹp, lại hay bị đá lăn trên núi xuống. Vì thế TQ đang đào 3 cái hầm xuyên núi. Cũng vì đào và làm hầm nên đường bị xe công trường cày ải, bụi mù mịt và đường toàn bụi đất.
Đại khái thế này
Cảnh chờ tránh xe thế này
Và xe tránh nhau thì thế này
(by June)
16-12-2013, 15:11
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
À, có chú chờ lâu quá nên tấp xe vào bên đường ngủ theo kiểu này
(chú này liên quan đến lúc về, kể sau)
Sắc màu
Mất mấy tiếng cho chặng đường đèo, sắc màu lại trải dài dọc đường đi.
Chẳng có máy ảnh nào ghi được hết những cảnh sắc thực được. Hãy đến và ngắm nhìn...
Đường đi
Lần nào đi chơi xa tôi cũng được các bạn đồng hành ưu tiên cho ghế ngồi phía trước xe, cạnh bác tài vì hay say xe. Thời gian di chuyển trên 4WD hàng ngày trên đất Tạng thường mất đến 5-6 tiếng nên tôi tranh thủ chụp được khá nhiều ảnh qua cửa kính. Bác tài Keychak của xe tôi là một người bạn đồng hành còn trên cả tuyệt vời. Lúc nào bác cũng lau kính xe trước bằng khăn sạch và gạt nước để chúng tôi có thể lia máy ngay từ lúc ngồi trong xe. Cứ thấy tôi sờ tay vào máy ảnh là bác lại đi chậm xe lại và ra hiệu hỏi tôi có dừng laị không. Có nhiều đoạn bác còn chủ động dừng xe vì bác cho rằng chỗ đó có tầm ngắm đẹp, và bác còn chạy ra chụp ảnh bằng chiếc di động của bác trước cả lũ chúng tôi nữa !
Những con đường miền Đông của Tây Tạng đẹp như những bức tranh cực kỳ rực rỡ sắc màu của cây lá, của dòng Yarlung Tsangpo xanh như ngọc chảy dọc theo đường chúng tôi đi, của núi tuyết trắng cao vời nổi bật trên nền trời xanh những ngày đông hầu như không có một gợn mây, thực là một thế giới hoàn toàn khác với phía Tây toàn địa hình đồi núi trọc, đầy xóc bụi và gió cuốn mà lúc nào tôi cũng nhớ.
Last edited by June; 17-12-2013 at 22:43.
18-12-2013, 01:40
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Màu lá đỏ giữa trời xanh
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Đây là thông tin công ty mà nhóm mình làm việc:
Tibet Kawa Karpo International Adventure
Tibet FIT TRAVEL
Xian Zudao Xigu Gongyulou
nan1 -15hao lhasa Tibet China
E mail: lhakpa88@yahoo.com
Mobile: 13989011658 -18989906263
Office: +86 891 6349239
Fax: +86 891 6363825
Web site: http://www.tibetfit.com/
www. tibetkawakarpoadventure.com
Liên lạc: Lhakpa Tsering <lhakpa88@yahoo.com>
Đúng như PHAM-BEK nói, đi về phía Đông khó khăn hơn về phía Tây, xin nhiều permit hơn (lần này phải có 7 permit) và có những khu vẫn không được vào. Mình không phải là người liên hệ làm việc trực tiếp nên cũng không nắm chi tiết về phía Tây đâu.
Lúc đầu bạn Huy còn muốn đi lên cung Tây Bắc (đi về phía Khả Khả Tây Lý), cung đó có rất nhiều hồ nước đẹp, nhưng mùa đông tuyết phủ không đi được nên mới chuyển sang cung phía Đông.
21-12-2013, 01:49
Sông
Đường tiếp tục đi về phía Đông, vẫn núi trắng, trời xanh. Đi giữa mùa đông là thế đấy.
Bên đường, anh chàng Tenzin chổng mông làm gì thế? Anh ta đang chụp ảnh mặt đường đấy.
Có lẽ các tour thường đi cung truyền thống về phía Tây nhiều, ít đoàn đi về phía Đông nên không chỉ Tenzin mà hai bác tài cũng rất hào hứng chụp ảnh !
Dòng sông nơi đây đẹp ngẩn người
Lợi thế của áo đỏ
Re: Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
"Đặc sản" núi tuyết và trời xanh Tây Tạng mùa đông
Thầy Đốc trên xe tôi mỗi ngày đều thốt lên tới hơn chục lần rằng "Đẹp phát rồ !" " Ôi ĐM !" "Đẹp VL !" vì cái màu xanh nhức nhối này
ý là "Ôi điên mất" "Đẹp vô lý "
25-12-2013, 21:25
Bomi
Chiều, xe đến Bomi, thị trấn về phía Đông của châu Nyingchi. Theo kế hoạch thì sẽ đến một khu nhà nghỉ trên một hồ nước ở xa hơn nữa. Tuy nhiên, lại tuy nhiên, Tenzin cho biết sau Bomi sẽ đi sang đất của châu Chamdo (Hán dịch là Xương Đô), mà chưa thể xin phép được. Vì vậy tối nay ngủ lại Bomi.
Bomi rất gần ngọn núi thiêng của đạo Bon là núi Bonri. Tuy nhiên vì một số lý do riêng mà đoàn đã không đến đó.
Sông núi hiền hòa trên đường đi
Quảng trường trung tâm thị trấn Bomi nằm dưới chân núi. Khách sạn nơi nghỉ cũng ở ngay cạnh đây, có nước nóng và chăn sưởi.
Đạo Bon
Nhắc đến Bonri thì lại lan man nói về đạo Bon một chút.
Đạo Bon có từ bao giờ, ngày xưa như thế nào - thì theo tôi biết - không còn thông tin gì nữa. Cũng như các dân tộc, các nền văn hóa văn minh khác, thuở sơ khai người Tibet cũng tôn thờ các vị thần tự nhiên, các quỷ thần sông núi. Họ làm các lễ shaman kiểu lên đồng để cầu khẩn thần linh, sáng tạo các điệu múa mô tả hình thức trừ ma diệt quỷ. Những tín ngưỡng bản địa đó có lẽ chưa trở thành tôn giáo như ngày nay với kinh sách, tu sĩ, giáo sĩ đầy đủ.
Các thủ lĩnh Tibet xưa kia cùng với các pháp sư tín ngưỡng Bon có lẽ song hành cùng nhau trong việc lãnh đạo dân chúng về cuộc sống và tâm linh.
Khi Phật giáo truyền vào, với hệ thống lý luận vượt trội, đã nhanh chóng thuyết phục các thủ lĩnh, các vị vua Tibet, khiến các vị vua quay lưng lại với tín ngưỡng cũ. Đạo Bon mất dần vị thế. Tuy nhiên đạo Bon không vì thế mà thụ động và bị tiêu diệt. Họ không chỉ tìm cách chống lại mà còn thay đổi, thích nghi rất nhiều để hoàn thiện lên một tầm mới. Các kinh sách được viết ra, các vị pháp sư cổ xưa được hình tượng hóa, các cấp bậc và lý luận được phát triển. Mười đời vua sau Tsongpan Gampo thì đạo Bon quay trở lại, được một thời gian.
Phật giáo càng phát triển thì đạo Bon để tồn tại cũng càng phải cải biến, mượn nhiều yếu tố Phật giáo vào của mình. Từ kiến trúc, trang phục tu sĩ, cách tạc tượng... của đạo Bon giống Phật giáo, đến cả các lý luận, học thuyết cũng giống phái Nyingma đến nỗi ngày nay rất nhiều người cho rằng đạo Bon bây giờ ở Tibet chỉ là một nhánh của Phật giáo. Chính Dalai Lama cũng cho rằng đạo Bon bây giờ không phải là Bon nguyên thủy nữa, mà trở thành phái thứ 5 của Phật giáo rồi.
Tu viện và tu sĩ đạo Bon, ảnh sưu tầm trên wikipedia.org.
Last edited by Chitto; 26-12-2013 at 18:41.
Đạo Bon
Để hoàn chỉnh giáo thuyết, đạo Bon đã viết kinh sách về một vị giáo chủ khởi thủy là Tonpa Shenrab Miwo. Ngài vốn một vị vương tử đã xuất gia đi tu tìm đạo. Sau nhiều năm tìm đạo, ngài đã chứng ngộ và khai sáng đạo Bon tại gần núi Kailash, với các giáo thuyết phong phú.
Thuyết của đạo Bon cho rằng Tonpa Shenrab Miwo sinh ra trước cả Phật Thích Ca và chứng ngộ trước Phật, tuy nhiên dễ thấy các truyền thuyết đều mượn từ cuộc đời Phật Thích Ca.
Phật giáo Tây Tạng có rất nhiều yếu tố từ Bon giáo, và Bon giáo cũng nhiều yếu tố Phật giáo, đến nỗi đã hòa vào nhau mất rồi. Dù tên gọi và truyền thuyết khác nhau, nghi lễ khác nhau như việc đạo Bon đi kora ngược chiều kim đồng hồ, nhưng có lẽ con đường đi cũng không khác nhau nhiều lắm.
Tạo hình giáo chủ Tonpa Shenrab Miwo rất giống Phật, chỉ là không có tóc xoắn ốc.
(Ảnh sưu tầm)
Bomi
Có nhiều truyền thuyết của đạo Bon về núi Bonri ở gần Bomi.
Truyền thuyết thứ nhất nói rằng Giáo chủ Tonpa Shenrab đã đánh bại ác thần Khyabpa Lagring tại đây. Truyền thuyết thứ hai nói rằng xưa kia đạo sư Dunba Qinrao đánh nhau với quỷ Qiaba Laqin suốt 49 ngày, cuối cùng đã hóa phép ra một ngọn núi đè chặt quỷ và giết chết nó, chính là núi Bonri.
Truyền thuyết thứ ba kể rằng khi Liên Hoa Sinh hoằng dương Phật giáo, đã đẩy tất cả các tu sĩ đạo Bon khỏi Tây Tạng. Đến núi Bonri thì pháp sư Aqong Jayyo đã đấu phép và chặn đứng được Liên Hoa Sinh tại đây. Chính vì vậy đây là ranh giới và thể hiện sức mạnh của đạo Bon trước Phật giáo. Truyền thuyết thứ ba này mang tính lịch sử nhiều hơn. Thực sự thì về phía đông núi này vẫn còn nhiều cộng đồng theo đạo Bon và gìn giữ truyền thống tôn giáo này.
Bóng chiều về trên sông. Bên này sông đa số người Hán, bên kia sông là những làng người Tạng.
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Điều đó hình như chưa xảy ra tại bất kỳ đâu (?).
Một là thời Zhangzhung, đạo Bon có lẽ chỉ là mức tín ngưỡng tự nhiên thờ các thần núi, sông, hồ, thậm chí totem vật tổ (người Tạng tự cho mình có dòng giống từ con Khỉ thần và một con nữ quỷ). Các thần đạo Bon hầu như là nữ thần, có chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo, mức độ lý luận, triết thuyết rất sơ khai không thể so với Phật pháp được. Minh chứng là đến nay những gì thuộc về đạo Bon cổ chỉ còn ở những bức tượng, điệu múa, nghi lễ dân gian chứ không có trong kinh sách.
Hai là khi đang có vai trò là các tư tế, thầy cúng cho các thủ lĩnh và trong dân chúng, chắc chắn các pháp sư đạo Bon cổ không chấp nhận thay đổi được, nhất là trước một giáo thuyết hoàn toàn xa lìa sự thờ cúng, xa lìa quyền lợi như Phật giáo.
Những trường hợp tương tự trên thế giới có nhiều: Hi Lạp với nền văn minh rực rỡ, hệ thống thần thoại, các vị thần rất hấp dẫn thú vị, nhưng khi gặp phải Kitô giáo có tính triết thuyết cao hơn đã nhanh chóng tàn lụi. Tôn giáo của La Mã cổ đại suốt nghìn năm rực rỡ cũng nhanh chóng nhường chỗ cho Kitô giáo mà không thể có sự hòa nhập hay cải biến nào kịp. Viking Bắc Âu, tín ngưỡng bản địa người Nga cũng tương tự.
Riêng ở TQ, có nền tôn giáo bản địa thâm sâu là Đạo giáo mà vẫn không thể dừng bước Phật giáo và sống chung rồi dần tàn lụi. Chỉ có Khổng giáo vốn không phải tôn giáo thờ thần và Vua chính là một dạng giáo chủ thì còn giữ được.
Do đó việc đạo Bon cổ còn gìn giữ được đến ngày nay chỉ ở cái tên cũng là điều bình thường.
Tsongpan Gampo theo Phật giáo đến mức nào cũng khó nói. Theo sử thì năm 640 công chúa Văn Thành (và trước đó là công chúa Nepal) giới thiệu Phật giáo vào Tibet và dựng đền Jokhang, nhưng mà mãi đến năm 775 Liên Hoa Sinh mới dựng được tu viện đầu tiên và có tu sĩ Tibet đầu tiên. Trong gần 150 năm đó toàn là người nước ngoài truyền đạo nhưng chắc cũng rất vất vả, và người Tibet cũng chống lại nhiều.
Việc Tsongpan Gampo theo Phật giáo có thể chỉ mang tính biểu tượng nhiều hơn, thể hiện mình khác biệt giai đoạn cai trị kiểu cũ của Zhangzung hơn là trở thành một tín đồ Phật giáo thâm sâu. Cuộc đời ông mải mê chinh chiến và thâu tóm đế quốc nên chắc chắn muốn thoát ra khỏi cái vòng vây tín ngưỡng đạo Bon cổ.
Trong lịch sử có đề cập mấy vị đại thần xuất sắc của Tsongpan Gampo, một người đã sang Ấn Độ học chữ Ấn về cải cách chữ viết Tibet từ kiểu của Zhangzhung sang kiểu mới mang phong cách Ấn. Chính chữ viết và ngôn ngữ đó giúp tư duy Tibet gần với Phật giáo hơn và xa rời Bon giáo vốn không có kinh sách mà chỉ là tập tục.
Bomi
Ở Bomi, chúng tôi sang sông về phía làng Tạng. Tại đó cả lũ xúm lại một quán bán tai mũi má lợn trông cực kì ngon lành, và làm mấy cân mang về, cùng với bia. Ngang qua hàng nướng lại xách thêm mấy chục xiên rau, khoai,... nói chung là một bữa phởn chí ở nơi xa xôi này.
Ngọn núi phía Tây Bomi, trong ánh sáng cuối ngày
Và khi những tia nắng đầu tiên bừng lên
Bóng núi
Lại lên đường trong buổi sáng sớm, khi núi rừng còn chưa thức hẳn, nhưng ánh sáng đã lấp lánh trên ngọn núi, và phản chiếu dưới dòng sông nhỏ bên cạnh đường đi.
Mê đắm với không gian này, cảnh sắc này. Nhất là khi con đường đâm thẳng vào một ngọn núi sừng sững. Như trong một câu truyện cổ xa xưa, những người đi tìm quái thú hay tìm các kho báu, các vị thần tiên vậy.
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Hindu giáo thực sự là một tôn giáo có đầy đủ các yếu tố để lưu truyền lâu dài sớm nhất của nhân loại, nên cho đến nay là tôn giáo cổ nhất vẫn hưng thịnh. Hindu lại còn dựa trên hệ thống chữ viết có từ rất sớm nên kinh điển được lưu truyền dễ dàng và lâu dài, như các bộ Vedas có từ 1500-1000 trước Công nguyên. Các ý tưởng triết học, thần học đã rất sáng lạn và được tích lũy qua gần nghìn năm nên đã hoàn chỉnh. Đến nỗi đã 3 nghìn năm trôi qua mà tư duy tôn giáo của người Ấn Độ vẫn không thay đổi gì.
Ngay cả Phật Thích Ca cũng học rất nhiều từ Hindu, những khái niệm về Luân hồi, Nghiệp, Ngã và Vô ngã,... cũng từ Hindu. Người Hindu giáo cũng chỉ coi Phật là một hóa thân của Vishnu, coi Phật giáo là một nhánh của Hindu. Ngay cả dưới thời Asoka truyền bá Phật giáo thì nhiều nơi người dân vẫn chỉ coi đó là một biến thể của Hindu giáo (trong rất nhiều biến thể).
Người Tibet không có được những yếu tố đó (chữ viết, tư duy trừu tượng cao, những tu sĩ ẩn mình chiêm nghiệm....) trong thời gian rất dài. Cuộc sống du mục không cho phép họ có những thành tựu trí tuệ sâu sắc đến thế trong giai đoạn khi chưa hình thành được một nhà nước thống nhất và hùng mạnh. Về sau dưới sự bảo trợ của các vị vua thì họ mới có đủ nguồn lực để xây tu viện, nuôi ăn nuôi mặc một tầng lớp tu sĩ đông đảo (chả lao động gì cả) đến thế. Tất nhiên sau này dân tạng tín tâm cúng dường, nhưng thời gian đầu chắc chắn phải do các ông vua giàu có chu cấp mới có thể có giới tu sĩ đông đảo, đoàn kết, thống nhất tư tưởng để làm được nhiều việc. Các tu sĩ đạo Bon cổ không có kinh sách, không giáo lý sống rải rác trong dân cư không thể nào có được những lợi thế đó.
Đạo Bon cổ có lẽ cũng giống những tín ngưỡng cổ ở nơi khác, có cả Việt Nam - mà vì một số lý do vẫn còn tồn tại. Những hình thức nhảy múa lên đồng của người Kinh, cúng ma của người Tày Thái... nếu ngẫm kí thì cũng có những tương đồng với rất nhiều tín ngưỡng bản địa khác trên thế giới.
Lại núi
Lại sắc màu
Tôi rất thích bức ảnh này, nhìn thấy nó là có cảm giác bình yên, mặc dù nó đầy gai góc. Chính sự tĩnh lặng của núi đá đổ màu xuống cánh đồng và cây cối mới lại càng làm nó thêm cô đơn trầm mặc, dường như nó đã chịu nhiều biến động lớn lắm trong cuộc đời.
Bomi
Hơn 230km đường quốc lộ 318 chạy từ Bayi tới Bomi đưa chúng tôi đến với vùng đất được mệnh danh là "Thuỵ Sĩ trong lòng Tây Tạng" với màu sắc tươi sáng của những cánh rừng thông xanh cao vút, đồng cỏ khoáng đạt trong lòng các thung lũng và đặc trưng của Tây Tạng là những dãy núi tuyết phủ trắng nhấp nhô, sông hồ xanh lấp lánh dưới ánh mặt trời. Nếu có dịp được trở lại vùng đất miền Đông Nam Tây Tạng này giữa mùa xuân khi trăm hoa đua nở sẽ đẹp biết chừng nào... Chỉ có điều chúng ta đều biết cả tháng 3 của tất cả các năm khi hoa đào hoa mận nở bạt ngàn ở Peach Valley chỉ cách Bomi 30km thì chính phủ TQ không bao giờ cấp permit vào Tây Tạng.
Cách Lhasa 636 km về phía đông, Bomi (Pomi) nằm trong khu vực cận kề với hai hệ núi lớn của Tây Tạng là Himalaya và Nianqing Tanggula, chính vì thế đứng ở Bomi hay trên đường đi thì ta vẫn đi giữa bốn bề là núi tuyết
Bốn mặt núi tuyết ở hồ Guxiang
Gọi là hồ nhưng Tenzin bảo tôi không phải là hồ vì nó chỉ là nhánh của dòng sông Parlung- tsangpo bị chặn lại tạo thành hồ do một đợt lở đất từ giữa thế kỷ 17. Hồ này nằm ở độ cao 2600m trên mực nước biển, mức cao độ vừa phải nên giữa mùa đông mà những rặng tùng và thông liễu vẫn xanh rợp quanh hồ
30-12-2013, 23:54
Midui glacier
Chúng tôi đến sông băng Midui, được coi là một trong 6 sông băng đẹp nhất ở Trung Quốc. Tuy vậy vào mùa hè mới có thể đi cả ngày trời trong khu vực đó, thăm các khu vực khác nhau. Mùa này băng trắng xóa, ngoài chúng tôi không ai vào thăm cả.
Mà đọc thấy mấy năm trước có 2 người Hàn quốc đi vào sâu trên sông băng rồi mất tích luôn, cho nên giờ cấm không cho đi xa, chỉ ngắm cảnh dưới chân núi thôi.
4x1 của tự nhiên và 4x4 nhân tạo
Bên trái đường là dòng suối đóng băng, và bên phải là hàng trăm chồng đá nhỏ
Midui
Nắng rực rỡ và tuyết lấp lánh
Midui
Càng đi về phía Midui càng lạnh, cũng không xa lắm.
Và sông băng trước mặt, trắng xóa hùng vĩ. Sông băng này từ đỉnh cao 6800m chảy xuống nơi thấp nhất là 2400m. Đây là khúc giữa trong khoảng 3000 - 4000m.
Hồ băng
Có một mặt hồ băng phẳng lỳ bên dưới
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Hắt hơi mấy ngày, hóa ra có người nhắc đến mình và topic này.
Đúng là cứ chủ định viết phải cho xong, mà sao toàn đứt gánh giữa đường. Có đến cả chục topic nửa chừng thế này rồi.
Năm nay năm ngựa. Có chú ngựa xa xa
Một làng Tạng nhỏ gần sông băng Migui
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Hình ảnh cuối về sông băng Migui
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét