Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Chuyến đi với tôi kết thúc đã 3 ngày, còn với một số bạn giờ mới kết thúc.
Chuyến đi tôi chỉ có duyên đi theo, không tham gia lên kế hoạch hay bất cứ gì khác, thảnh thơi mà tận hưởng.
Hình như tôi đã qua mất cái thời có thể viết những bài với cảm xúc tràn đầy, dù thực sự vẫn tràn đầy xúc động về một vùng đất có thể làm người ta say mê.
Tây Tạng, Tây Tạng, đã có nhiều topic trong diễn đàn này viết về nơi đó. Thêm một topic vốn cũng không có nghĩa gì.
Tuy nhiên các chuyến đi trước đây đều là đi về phía Tây của Lhasa, nay chuyến đi của chúng tôi hướng về phía Đông, đi vào vùng Niyingtri (Lâm Chi) và sang đất Chamdo (Xương Đô).
Về Tây Tạng, Yilka đã có topic khá chi tiết: Trung Hoa tây du kí; hay Backpackervn đầy cảm xúc trong Mây trắng Tây Tạng..., và June với chuyến đi hành hương Kailash kinh điển: Tây Tạng những ngày xanh nắng hạ,... do đó tôi chỉ làm người cóp nhặt lại những gì trên cung đường đã qua, sẽ rơi rụng theo thời gian, và không biết bao giờ mới viết xong.
Nếu không bao giờ viết xong, thì cũng coi như là tình cảm với Tây Tạng cũng sẽ còn lưu mãi.
Last edited by Chitto; 28-11-2013 at 00:31.
Cung đường
Đoàn có 7 người, mà trong đó 4 người đã từng kora vòng quanh Kailash, những người coi Tây Tạng như một phần của cuộc sống. Còn ba người chúng tôi lần đầu lên Tây Tạng. Với Tây Tạng, con số 7 là số đẹp - Tenzin, chàng guide của chúng tôi nói thế - vì xưa kia khi Đức Phật đản sinh đã bước đi 7 bước, và vì vậy trước bàn thờ Phật luôn bày 7 bát nước.
Có phải vì thế mà chuyến đi gặp được một số duyên may, như việc chúng tôi vào được những nơi tôn nghiêm nhất của đền Jokhang, nơi mà chưa đoàn nào vào được, hay việc gặp được các cảnh sắc Tây Tạng tuyệt vời.
Tuy nhiên chuyến đi cũng có nhiều trờ ngại, là các trở ngại đó hoàn toàn là do sự kiểm soát gắt gao của TQ với vùng đất này.
Bản đồ lịch trình của chúng tôi, với 7 giấy phép mới có thể đi được theo cung đường màu đỏ.
Trong dự kiến, con đường về sẽ là màu xanh, đi qua hồ Lhamo Latso, nhưng giấy phép đã không thể xin được, vì vậy chúng tôi ngậm ngùi chia tay chiếc hồ thiêng liêng bậc nhất Tây Tạng. Những dự kiến ngủ ở tu viện, ngủ ở làng,... cũng không thể thực hiện được khi công an thường xuyên yêu cầu phải vào các khách sạn do chính quyền quy định.
Cung đường
Thậm chí chúng tôi đã từng mong muốn có thể nối cung đường từ Lhasa về Chengdu (Thành Đô), và như thế sẽ tận hưởng hết vẻ đẹp từ cao nguyên Tây Tạng xuống bồn địa Tứ Xuyên. Nhưng đâu có dễ dàng thế. Các ngả đường bộ nối Trung Hoa đại lục với Tây Tạng đều đóng lại với người ngoại quốc. Từ lâu không người nước ngoài nào được phép đi đường này nữa, vì thế nơi xa nhất về phía Đông chúng tôi đến được chỉ là Rawok.
Lịch trình của mùa đông, từ 10/11 đến 24/11
Ngày 1: Bay Hà Nội - Chengdu, nghỉ tại Chengdu
Ngày 2: Bay Chengdu - Lhasa: đi dạo thành phố, quảng trường Potala
Ngày 3: Tu viện Drepung, Sera, quảng trường Barkor
Ngày 4: Tu viện Reting, suối nóng Tildrum
Ngày 5: Vượt đèo Parla đến hồ Basomtso (Laskumtso)
Ngày 6: Chơi hồ Basomtso, đến Bayi
Ngày 7: Lên đèo Serkhymla, đến Pomi
Ngày 8: Sông băng Migui, đến Rawok
Ngày 9: Quay về Pomi
Ngày 10: Làng Tashigang, về Bayi
Ngày 11: Tu viện Lamaling, về Tsetang
Ngày 12: Yumballagang, đi Samye
Ngày 13: Samye, về Lhasa
Ngày 14: Potala, đền Jokhang
Ngày 15: Lhasa - Chengdu - Hà Nội
Chi phí: Visa 63 usd, bay HN - Chengdu - HN 3,5 tr VND; bay Chengdu - Lhasa - Chengdu 2150 tệ, tour 790 usd, ăn ở vé 2200 tệ.
Ngoài ra còn mua thức ăn từ nhà, bảo hiểm, quà tặng, đồ lưu niệm thì không tính.
Người giao dịch với chúng tôi:
Lhakpa Tsering
Tibet Kawa Karpo International Adventure
Tibet FIT TRAVEL
Xian Zudao Xigu Gongyulounan1 - 15hao Lhasa Tibet China
E mail: lhakpa88@yahoo.com
Mobile: 13989011658 -18989906263
Office: +86 891 6349239
Fax: +86 891 6363825
Web site: http://www.tibetfit.com/
www. tibetkawakarpoadventure.com
Last edited by Chitto; 30-07-2014 at 10:53.
Re: Tây Tạng - mùa đông đi về phía Đông Lhasa
Vài bức ảnh cho sinh động
Đầu đông trên dòng Yalung Zangbo / Yarlung Tsangpo
Sắc màu lungta trên đường đi
Hồ Draksum-tso (Basom-tso), hồ thiêng ở vùng Đông của Tây Tạng
Last edited by Chitto; 13-12-2013 at 02:16.
Tây Tạng - mùa đông đi về phía Đông Lhasa
Namche Barwa ngạo nghễ
Trong vắt
Lâu đài cổ nhất Tây Tạng còn sống sót qua Cách mạng Văn hóa
Last edited by Chitto; 28-11-2013 at 19:20.
Chuyện sức khỏe
Khi biết chúng tôi đi Tây Tạng vào mùa đông, có người đã ngăn cản, và có người nói rằng Tây Tạng đi vào mùa này là quá khó với người vùng nhiệt đới.
Sự thực thì khác hẳn. Với 7 người chúng tôi chuyến đi không có nhiều vấn đề gì về sức khỏe. Không phải dùng bất cứ một loại bình ôxy, thuốc TQ chai hồng gì gì đó cả, và vẫn nhảy nhót như điên.
Cũng nhờ có H, anh chàng đã cung cấp cách thức rất đơn giản và hiệu quả, đó là dùng trước 48h khi vào Lhasa thì uống mỗi ngày 3 viên Acetalozamid, loại 10 (hay 20) nghìn 1 vỉ 10 viên. Tôi uống đúng 8 viên này trong 2 ngày trước khi đi và 1 ngày khi vào đến Lhasa là thôi. Toàn bộ chuyến đi không dùng thêm gì nữa cả.
Trong chuyến đi chỉ có ngày di chuyển từ Lhasa đi Tildrum là June bị mệt do say xe (không phải do độ cao), và tối hôm đó ngủ ở độ cao 4500m trong điều kiện trời quá lạnh nên mọi người mất ngủ do mũi bị tịt vì lạnh, còn thì đều ổn cả. Ngay ngày đầu lên Lhasa đã đi bộ khá nhiều, ngày hôm sau tôi đi bộ suốt cả ngày, ngay cả khi mọi người đã về khách sạn nghỉ vẫn một mình lang thang đến 10h tối. Tại những đỉnh đèo 4800, 5000m vẫn nhảy nhô nhảy nhào tạo dáng. Thực sự tôi không hề bị bát kì một lúc nào nhức đầu hay ù tai gì cả.
Ngoài ra là đồ lạnh. Do lo rét nên mang khá nhiều nhưng thực tế cũng không dùng nhiều áo rét lắm. Thông thường mặc 1 áo may ô, một áo đông xuân dài tay, một áo nỉ và áo khoác ngoài là hết, kèm với mũ len, khăn len, găng tay và giày tốt là ok rồi. Tấm dán nhiệt, lông áo mang đi không dùng tới.
Tất nhiên đây là chuyện cá nhân, không áp dụng cho tất cả mọi người. Đừng bạn nào chủ quan rồi sau lại bị mệt thì khổ.
27-11-2013, 21:28
Mùa thấp điểm
Đi Tây Tạng vào mùa thấp điểm và không phải cung truyền thống có một lợi thế rất lớn là : VẮNG.
Chuyến đi của 7 người trên hai xe landcruise đường lớn thênh thang, các điểm đến đều không có du khách, gần như chỉ gặp người Tạng đi hành hương và làm lễ.
Giá vé Potala mùa đông cũng giảm còn 100 tệ (so với 200 tệ mùa hè) và thời gian vào thoải mái. Nhìn ảnh các đoàn khác phải xếp hàng dài và "đi như bị ăn cắp" (lời Yilka) thì chúng tôi thật là thoải mái. Có thể ở trong Potala bao lâu tùy thích, dừng bất cứ đâu chỉ trỏ ngắm nghía, cùng gắp tim nến với các Lama, chắp tay cầu nguyện trước các bàn thờ, lặng lẽ ngắm kĩ từng bức tranh tường, cảm nhận từng hơi thở của cung điện nghìn năm.
Cũng vì có duyên, nên khi vào đền Jokhang, chúng tôi đã có may mắn khi tấm màn sắt chăng kín các gian thờ bí mật được vén lên, và vì thế được vào sát chiêm ngưỡng pho tượng Jowo Sakyamuni - pho tượng quý giá nhất Tây Tạng - ngay tận mắt, đi vòng quanh pho tượng và nghe tiếng tụng kinh vang rền của những tín đồ. Những may mắn và cảm giác đó dường như vẫn còn khi tôi gõ những dòng chữ này.
Đi vào mùa thấp điểm, các nhà nghỉ khách sạn đều có giá rẻ hơn. Tuy nhiên cũng có nơi được Lonely Planet giới thiệu thì đã đóng cửa nghỉ đông.
27-11-2013, 21:40
Giá vé một số địa điểm, đơn vị: Tệ. Thẻ sinh viên quốc tế không có giá trị sử dụng ở Tây Tạng
- Cung Potala: 100
- Đền Jokhang: 85
- Tu viện Drepung: 50
- Tu viện Sera: 50
- Tu viện Reting: 30
- Suối nóng Tildrum: Free
- Hồ Draksum-tso: 105
- Sông băng Migui: 50
- Yumbullagang: 30 (vào trong nội điện, bên ngoài free)
- Tu viện Traduck: 35
- Tu viện Samye: 50 (nếu nhóm từ 3 người trở lên thì còn 40)
Tất cả số này đã nằm trong tổng chi 2200 tệ mà tôi tính ở trên.
Giá phòng nhà nghỉ - khách sạn:
- Yak hotel tại Lhasa: 70 / người
- Nhà trọ ở Tildrum: 30 / người : nhà nghỉ chỉ có phích nước sôi, vệ sinh bên ngoài
- Laskumtso: 100 / phòng 2 hoặc 3 người : khách sạn, có tắm nóng lạnh, phòng tắm có đèn sưởi
- Bayi: 50 / người : có tắm nóng lạnh, có đệm sưởi
- Pomi: 50 / người: có tắm nóng lạnh, có đệm sưởi
- Rawok: 100 / phòng đôi: không tắm nóng lạnh, có đệm sưởi. Nước phải xách từ dưới do đường ống bị đóng băng
- Tsetang: 180 / phòng đôi: nơi đắt nhất, có tắm nóng lạnh, điều hòa hai chiều ấm
- Samye: 40 / người: nhà trọ vệ sinh ngoài, chỉ có phích nước sôi
Last edited by Chitto; 13-12-2013 at 02:18.
27-11-2013, 21:53
Tu viện Drepung: cảnh luận pháp ở Sera thì phổ biến chứ ở Drepung ít hơn nhiều, và có lẽ cũng ở kiểu khác
Những người hành hương tam bộ nhất bái quanh Jokhang
Last edited by Chitto; 28-11-2013 at 19:21.
27-11-2013, 22:04
Gửi các bạn một khúc ca Thanh Tạng hát với dàn nhạc giao hưởng mà chúng tôi đã nghe trên những cung đường, khi vượt qua những đèo tuyết, trên thảo nguyên, hay trong bóng mặt trời cuối ngày bên hồ Ngan-tso.
Last edited by Chitto; 27-11-2013 at 23:06.
Tibet - Tây Tạng
Khi tìm hiểu một vùng đất như Tây Tạng, thực sự tôi không biết nên bắt đầu từ đâu. Có lẽ nên nói ngay từ tên gọi vậy.
Người Tây Tạng gọi vùng đất mình ở và dân tộc mình là Bob. Từ đó mà người Hán đời Đường gọi họ là Tu-bo / tu-fan (Thổ Phồn - đất của người Phồn), rồi người Ả rập giao thương gọi là To-bhot nghĩa là người Bhot ở trên vùng đất cao, từ đó truyền sang phương Tây thành ra từ Tibet ngày nay.
Còn người TQ thì gọi họ là người Tạng, và vì ở phía Tây của Trung quốc nên gọi là Tây Tạng. Và người Việt chúng ta quen với tên này hơn.
Tương tự như vậy, các địa danh trên đất Tibet đều có tên tiếng Tạng gốc, có thể phiên âm Latin. Thế nhưng do nền văn hóa Hán quá mạnh nên chúng ta (và cả người phương Tây) nhiều lúc chấp nhận tên tiếng Hán mà quên đi tên gốc. Vì thế trong topic này tôi sẽ dùng tên gốc cùng với phiên âm Hán Việt của từ tiếng Hán.
Tibet hay Tây Tạng - như vậy đều không phải là tên gốc của cư dân vùng đất này. Tiếc thay nó đã thành phổ biến và chính họ khi nói về mình cũng dùng từ này.
Topic của Yilka đã viết khá nhiều về lịch sử và Phật giáo Tây Tạng, tuy nhiên topic này tôi cũng vẫn sẽ viết lại sơ lược vài điều, để hành trình có nhiều ý nghĩa, và để chính mình không chỉ là một khách qua đường hời hợt của vùng đất kì lạ này.
27-11-2013, 23:43
Tibet từ sơ sử đến đế quốc
Những cư dân lâu đời nhất trên cao nguyên Tibet đến từ phía Bắc, vùng Amdo - Thanh Hải từ hàng nghìn năm trước Công nguyên.
Khoảng 1000 năm trước Công nguyên, nền văn minh Zhangzhung đã phát triển ở phía Tây của Tibet, với núi Kailash là trung tâm. Các vương quốc Zhangzhung tiếp nối ảnh hưởng đến toàn bộ phía Tây và Tây Bắc của Tibet, và lan sang phía Đông. Những vương quốc xa xưa này không để lại nhiều dấu vết và thư tịch, chỉ biết rằng họ đã có chữ viết riêng, lối chữ Tibet cổ.
Đạo Bon bản địa hình thành và phát triển trong vương quốc Zhangzhung (từ khi nào cũng không rõ). Đạo Bon sơ kì - cũng như chính Zhangzhung rất ít dấu tích để lại.
Khoảng 100 trước Công nguyên, tại phía Đông, vùng đồng bằng sông Yarlung Zangpo gần Lhasa ngày nay, một thủ lĩnh địa phương là Drigum Tsenpo chống lại Zhangzhung, đuổi các tu sĩ đạo Bon đi, và trở thành vị vua phía Đông, xây dựng lâu đài Yumbullagang làm thủ phủ của mình. Ông bị người Zhangzhung giết, nhưng người Tibet ngày nay đều coi ông là vị vua Tibet đầu tiên.
Trong khi Zhangzhung thực sự vẫn tồn tại, những người Tibet phía Đông quanh sông Yarlung Zangpo đã huyền thoại hóa Drigum Tsenpo và đặt ra các vị vua huyền thoại nối dòng từ ông, họ chờ đợi trong suốt 700 năm.
Cho đến những năm 600, vị thủ lĩnh vĩ đại của người Tibet phía Đông đã xuất hiện: Songtsan Gampo (Tùng Tán Cam Bố) trở thành vi vua hùng mạnh, dẹp tan lực lượng Zhangzhung, thống nhất Tibet từ Đông sang Tây, xây dựng nên vương quốc rộng lớn của mình. Theo huyền thoại của người Tibet phía Đông, ông là vị vua thứ 33 tính từ Drigum Tsenpo.
Songtsan Gampo đã xây dựng vương quốc vững mạnh, tiêu diệt Zhangzhung ở phía Tây, đe dọa nhà Đường TQ ở phía Đông, Nepal ở phía Nam, Nam Chiếu ở phía Đông Nam. Ông cưới công chúa Nepal là Bhrikuti làm vợ đầu, Đường Thái Tông phải gả công chúa Văn Thành cho ông làm vợ thứ hai. Ông đã chọn vùng đồng bằng gần Yarlung Zhangpo làm thủ đô, và dựng lên cung điện trên quả đồi cao, mà ngày nay chính là cung Potala.
Vốn chống lại Zhangzhung, Songtsan Gampo cũng không ưa đạo Bon. Chính vì thế khi hai người vợ theo Phật giáo mang đến những pho tượng Phật, ông đã nhiệt tình ủng hộ và cho xây hai ngôi đền để đặt các pho tượng của tôn giáo mới. Tầng lớp quý tộc Tibet đã chuyển sang tôn sùng Phật giáo thay cho đạo Bon bản địa.
Từ đế quốc đến bị trị
Đế quốc Tibet mở rộng trong gần 200 năm sau đó, đến khoảng năm 790 thì cực đại như trong bản đồ, với 10 triều vua tính từ Songtsan Gampo.
Sau cái chết của Langdarma, vị vua thứ 10 tính từ Songtsan Gampo (thứ 42 theo truyền thuyết), năm 841 chính quyền trung ương sụp đổ, các lãnh chúa phân chia và đánh nhau trong khoảng vài trăm năm.
Khoảng 1240, Mông Cổ tiến quân chiếm Tibet và nhanh chóng thành công, thiết lập một hệ thống hành chính cai trị đại diện, vẫn để các lãnh chúa có quyền trên đất riêng. Chính quyền này tồn tại trong hơn 300 năm nữa.
Năm 1578, Khả Hãn nhà Nguyên tặng danh hiệu Dalai Lama cho vị lãnh đạo Phật giáo phái Gelugpa, từ đó được coi là lãnh đạo tinh thần cao nhất của Phật giáo Tibet.
Vị Dalai Lama thứ 5, với tài năng của mình đã thống nhất Tibet, và trở thành Dalai Lama vĩ đại nhất, thực sự lãnh đạo Tibet về mặt chính quyền. Từ đây Dalai Lama không chỉ là lãnh tụ tôn giáo mà còn là nguyên thủ quốc gia. Các Dalai Lama đều giữ ngoại giao tốt với triều đình TQ. Tuy nhiên do truyền thống tái sinh, các Dalai Lama không kế nhiệm liên tục mà luôn có những khoảng trống, và vì thế cần hội đồng các Cao tăng, cũng như Panchen Lama (Ban Thiền Lạt ma) nắm quyền những khi trống ngôi hoặc Dalai Lama còn quá trẻ.
Nhà Thanh đã đặt quyền cai trị của mình lên Tibet, các Dalai Lama lên ngôi phải được sự chuẩn y của hoàng đế. Đây chính là cái lý mà TQ sau này cho rằng Tibet thuộc cai trị của mình. Nhà Thanh cũng đã lấy nhiều phần đất thuộc Tibet làm thành các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên, Thanh Hải. Tibet ngày nay thu hẹp rất nhiều cũng vì điều này. Và mọi người có thể thấy dấu ấn Tibet ở khắp các tỉnh này.
Đầu thế kỉ 20, Anh muốn đưa quân cùng lính Ấn vào Tibet, nên đã xảy ra chiến tranh. Đến 1912 Anh phải rút quân. Từ 1912 đến 1951 Tibet thực sự được độc lập. Nhưng rồi sự độc lập đó chấm dứt khi Trung Quốc đưa quân lên.
Năm 1959, Dalai Lama thứ 14 rời khỏi Tibet, và nay Tibet nằm dưới quyền kiểm soát của TQ.
Tibet ngày nay
Last edited by Chitto; 28-11-2013 at 09:59.
Tây Tạng mùa đông - Đi về phía Đông Lhasa
Tất nhiên lịch sử nào cũng có sự tính thay đổi của nó. Tibet không thể đòi hỏi toàn bộ những vùng đất rộng lớn trong quá khứ để trở lại thành một đế quốc được. Cũng tương tự như đế quốc Khmer đã từng bao trùm gần như một nửa Đông Nam Á không thể đòi các phần miền Trung, miền Nam Việt Nam, Bắc Thái Lan... được, và Việt Nam cũng không thể đòi hỏi phần đất thời vua Minh Mạng từng cai trị bao gồm đến cả thành Nam Vang (Phnompenh) và Trấn Ninh (Xiengkhuang - Lào) được.
Đế quốc Tibet đã tan rã, các vùng Amdo, Kham nay đã thuộc các tỉnh khác của Trung Quốc nên cũng không thể đòi về đất Tibet.
Chỉ có điều TQ lập ra Khu tự trị dân tộc Tạng (Tibetan Autonomous Region - TAR) nhưng thực ra không có tự do cho người Tibet, và người Hán đã nhanh chóng tràn ngập các miền đất tươi tốt, dồn người Tibet về các vùng xa xôi khó khăn.
Đặc biệt Cách mạng Văn hóa trong 10 năm (1967 - 1976) đã phá hủy hầu hết tất cả các công trình văn hóa của người Tạng xây dựng trong hơn một nghìn năm, cướp phá rất nhiều báu vật, giết hại rất nhiều người. Hầu hết những công trình ta thấy ngày nay đều là tu sửa, dựng lại từ sau năm 1982.
Trong tôi cũng có một sự mâu thuẫn. Một mặt vừa ghét người Hán đã lấy mất nhiều thứ của người Tibet, cướp đi tự do của họ; một mặt cũng khâm phục hệ thống giao thông, điện mà người Hán xây dựng trên đất này. Đôi lúc tự hỏi: Nếu các Dalai Lama vẫn còn ở tại Potala, liệu tôi có được vào thăm cung điện này không? Chặng đường dài luôn luôn bị công an TQ giám sát và xét hỏi giấy phép, nhưng liệu đường sá có được như thế không nếu không có người TQ ?
Lược sử Phật giáo Tibet
Lịch sử của Tibet không thể tách rời khỏi lịch sử của Phật giáo.
Như trong phần trên đã viết, người Tibet hiện nay công nhận dòng vua tại khu vực sông Yarlung Zangpo là vua Tibet, còn vương quốc Zhangzhung đã suy tàn không còn dấu tích, và một số phế tích của vương quốc Guge ở phía Tây thì không được coi là chính thống.
Zhangzhung tôn sùng đạo Bon, tôn giáo bản địa thờ các vị thần tự nhiên, và có chịu ảnh hưởng của Hindu giáo với các vị thần dữ tợn, các nữ thần của các hồ nước, núi cao. Sau khi đạo Phật phát triển, đạo Bon cũng phải tự mình biến đổi, đặt ra một vị giáo chủ cổ xưa tương tự như đức Phật Thích Ca, và bị Phật giáo hóa đến nỗi ngày nay người ta không còn biết đạo Bon sơ kì như thế nào nữa. Đạo Bon còn lại đến nay có nhiều yếu tố giống Phật giáo nên về hình thức khó mà phân biệt.
Khi Songtsan Gampo phát triển sức mạnh vào những năm 620, ông chấp nhận những vị tăng sĩ Phật giáo từ hai phía: Nepal phía Nam và nhà Đường phía Đông, đều là Đại thừa. Đại thần của vua đã sang Ấn Độ và tạo nên chữ Tibet mới.Thời kì này không có người Tibet đi tu, mà chỉ có các tu sĩ nước ngoài giảng dạy Phật giáo cho triều đình, còn dân chúng vẫn thờ đạo Bon.
Tiếp sau Songtsan Gampo, nhiều đại thần quay lại với đạo Bon. Sau 5 đời vua, Trisong Detsen (Ngật-lật Song-đề-tán) là con của công chúa Kim Thành từ TQ, nên là một Phật tử. Ông đã mời hai Đại sư từ Ấn Độ sang là Santaraksita và Padmasambhava.
Padmasambhava (nghĩa là vị Tôn giả từ hoa sen - Liên Hoa Sinh đại sư) được coi là sinh ra từ hoa sen là bậc Đạo sư nổi tiếng nhất. Ông đã đi nhiều nơi ở Tibet, truyền thuyết là đã đánh nhau với các pháp sư đạo Bon ngay tại đất gốc của đạo này là núi Kailas. Hai đại sư đã thành lập tu viện Samye năm 755, và lần đầu tiên đào tạo tu sĩ cho người Tibet. Do đó Liên Hoa sinh cũng được coi như Sư tổ của toàn bộ Tu sĩ Tibet. Ông có tác động sâu rộng tại Tibet đến nỗi được coi là Đức Phật tái sinh. Ông cũng được gọi là Guru Rinpoche (Đạo sư – bậc vô cùng quý báu) là tổ của các dòng tái sinh. Ông là tác giả của rất nhiều tác phẩm, trong đó có cuốn Tử thư huyền bí.
Last edited by Chitto; 08-09-2014 at 12:04.
Lược sử Phật giáo Tibet
Dòng tu từ Liên Hoa Sinh là dòng chính thống duy nhất trong suốt hơn 200 năm tại Tibet. Lúc này nghiễm nhiên chỉ có một dòng nên không cần phân biệt và cũng không có tên riêng. Ảnh hưởng của Phật giáo Tibet lan rộng ra khắp xung quanh cùng với sự bành trướng của đế quốc. Thậm chí dòng Mật tông này còn truyền đến tận Nhật Bản, Việt Nam.
Vị vua tiếp theo sùng bái Phật giáo là Tri Ralpacan (Xích-tổ Đức-tán), Phật giáo phát triển rực rỡ với rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, đồng thời bộ Y thư Tibet nổi tiếng cũng được hoàn thiện trong thời kì này.
Ba vua: Songtsan Gampo, Trisong Detsen, Tri Ralpacan được tôn là ba vị vua của chính pháp, ba vị Hộ giáo vương.
Tuy nhiên ngay sau Ralpacan, vua Glangdama (Lãng-đạt-ma) tiêu diệt Phật giáo, quay lại với đạo Bon. Các tu viện Phật giáo bị phá hủy, kinh sách bị đốt. Chỉ có một số ít Lama chạy vào núi và các cư sĩ là thoát được. Những người này lưu giữ dòng tu từ Liên Hoa Sinh được gọi là dòngNyingmapa (Ninh Mã).
Glangdama cũng là vua cuối cùng của đế quốc Tibet thống nhất, ngay sau đó Tibet tan rã trong hàng trăm năm.
Trong thời kì Tibet bị phân chia, vào thế kỉ 11, bên cạnh dòng Nyingmapa đã phát triển thêm các phái Kagyupa (Ca-nhĩ-cư) và Shakyapa (Tát-ca). Dòng Skyapa có thế lực rất mạnh, đến nỗi người ta gọi một giai đoạn lịch sử là giai đoạn Shakyapa.
Hình ảnh Liên Hoa Sinh gặp trong các ngôi chùa, với ánh mắt dữ tợn và bộ ria đặc trưng. Tôi sẽ quay lại viết kĩ về các hình tướng và biểu tượng của vị Đại sư này trong những bài sau, khi đến các tu viện Ninh Mã.
Last edited by Chitto; 04-12-2013 at 01:53.
Lược sử Phật giáo Tibet
Vào giữa thế kỉ 14, dưới thời Mông Cổ cai trị chung, Đại sư Tsongkhapa (Tông-khách-ba) người Tibet đã hệ thống và cải cách Phật giáo và hình thành tông phái thứ tư: Gelugpa (Cách-lỗ). Tông phái này ngày càng lớn mạnh, và để phân biệt với ba tông phái cũ đội mũ đỏ, tông phái này đội mũ vàng nên còn được gọi là Hoàng mạo. Tsongkhapa là người đã đưa các nữ thần Tara của đạo Bon vào thành các vị Độ mẫu của Phật giáo, lập ra các tu viện Ganden, Drepung, Sera.
Đệ tử của Tsongkhapa theo truyền thống tái sinh. Sau khi đệ tử đời thứ nhất mất mới đi tìm đứa trẻ là tái sinh. Lãnh đạo tông Gelukpa đời thứ tư là Sonam Gyatso được mời đến Mông Cổ thuyết pháp, và được tôn là Dalai Lama, nghĩa là vị Đạo sư trí tuệ như biển cả. Ngài đã tôn các hóa thân hai đời trước của mình làm Dalai Lama, và như vậy tự nhận mình là Dalai Lama đời thứ ba.
Các Dalai Lama đến thứ tư đều chỉ có vai trò lãnh đạo tôn giáo trong tông phái của mình và khu vực, và sinh hoạt tại tu viện Drepung. Nhưng Dalai Lama đời thứ 5 là Ngawang Lobsang Gyatso (1617 - 1682) là một nhà chính trị tài năng đã thống nhất được Tibet, và có quyền lực bao trùm toàn bộ một vùng rộng lớn, ảnh hưởng đến cả triều Mông Cổ, Mãn Châu, được gọi là Dalai Lama Vĩ đại.
Dalai Lama 5 đã cho xây dựng lại cung điện nhỏ của Songtsan Gambo xưa kia trên đỉnh đồi thành cung điện Potala rực rỡ huy hoàng, đồng thời cho dựng nhiều tu viện khắp nơi, trong đó có Zhongzanlin tại Shangri-la, phái Gelugpa phát triển và nắm quyền lực tuyệt đối như một triều đình Tibet.
Dù sau đời Dalai Lama thứ 5, các Dalai Lama đều kém hơn hoặc mất khi quá trẻ nên không để lại dấu ấn gì, nhưng những nền tảng mà ông để lại vẫn đủ vững chắc để thể chế Dalai Lama tồn tại đến tận ngày nay, và trở thành biểu tượng tinh thần tối cao của người Tibet.
Last edited by Chitto; 04-12-2013 at 01:53.
28-11-2013, 21:36
Lhamo Latso
Mọi người đi Tibet chắc đều biết đến ba hồ thiêng ở phía Tây là Namtso, Yamdok, Marasanova. Ở phía Đông có một hồ thiêng là Laskumtso.
Nhưng có một hồ nhỏ, rất nhỏ nhưng rất thiêng liêng, thậm chí có người coi là thiêng liêng nhất với người Tibet, là hồ Lhamo Latso, hay là hồ Màu nhiệm.
Truyền thuyết kể rằng đại đệ tử của Đại sư Tsongkhapa là Gendun Drup đã đến hồ Lhamo Latso, tại đây ngài đã gặp được Nữ thần Palden Lhamo, là Nữ thần bảo hộ của cả Tibet ngự tại hồ. Nữ thần đã cho Gendun Drup nhìn thấy được tương lai, và hứa sẽ bảo vệ cho dòng truyền tái sinh của ngài. Khi Gendun Drup mất, các Lama trưởng lão đã đến hồ nhìn vào đó để tìm lời chỉ dẫn đi tìm hóa thân tái sinh.
Vì Gendun Drup được tôn là Dalai Lama thứ nhất, và các Dalai Lama đều là tái sinh từ ngài, nên các Dalai Lama ít nhất một lần trong đời đều phải đến hồ Lhamo Latso để soi mình xuống mặt nước, và mỗi khi Dalai Lama trước mất đi, các trưởng lão phải đến đây để cầu xin lời chỉ dẫn thông qua những hình ảnh mầu nhiệm sẽ hiện trên mặt nước hồ.
Năm 1935, các trưởng lão đã nhìn thấy những hình ảnh rõ ràng chỉ dẫn đến việc tìm ra Dalai Lama thứ 14 Tenzin Gyatso sau khi Dalai Lama thứ 13 qua đời.
Hồ nằm ở độ cao 4900m, trong lịch trình dự kiến, chúng tôi sẽ đi trek vào hồ, để soi lại chính mình trong mặt nước thiêng liêng.
Tuy nhiên, bên tour dù đã cố hết sức cũng không thể xin nổi giấy phép cho chúng tôi đến nơi này. Đó là điều đáng tiếc nhất của chuyến đi. Tuy nhiên chúng tôi đã có cơ duyên hội ngộ với Hồ thiêng theo một cách khác, tôi sẽ viết sau.
Hồ thiêng Lhamo Latso - ảnh trên mạng.
Last edited by Chitto; 30-11-2013 at 00:29.
Tây Tạng mùa đông - Đi về phía Đông Lhasa
Các thế hệ tái sinh của Dalai Lama từ năm 1391 như sau:
1. Gendun Drup: sống 83 năm
2. Gendun Gyatso: sống 67 năm
3. Sonam Gyatso: sống 45 năm, chính thức nhận Dalai Lama năm 35 tuổi
4. Yonten Gyatso: sống 28 năm, lên ngôi năm 14 tuổi
5. Ngawang Lobsang Gyatso: sống 65 năm, lên ngôi năm 5 tuổi
6. Tsangyang Gyatso: sống 23 năm, lên ngôi năm 14 tuổi
7. Kelzang Gyatso: sống 50 năm, lên ngôi năm 13 tuổi
8. Jamphel Gyatso: sống 46 năm, lên ngôi năm 4 tuổi
9. Lungtok Gyatso: sống 10 năm, lên ngôi năm 3 tuổi
10. Tsultrim Gyatso: sống 21 năm, lên ngôi năm 6 tuổi
11. Khendrup Gyatso: sống 18 năm, lên ngôi năm 4 tuổi
12. Trinley Gyatso: sống 18 năm, lên ngôi năm 3 tuổi
13. Thubten Gyatso: sống 57 năm, lên ngôi năm 3 tuổi
14. Tenzin Gyatso: lên ngôi năm 5 tuổi.
29-11-2013, 10:08
Cao nguyên
Lan man dẫn dắt nhiều rồi, giờ mới viết về chuyến đi thực sự.
Nhóm 7 người rời Hà Nội trên chuyến bay của VNairline trưa ngày Chủ Nhật, đến Chengdu (Thành Đô) khi đã chiều, nhất là do cộng thêm một giờ. Nhờ Huy, nhóm đã đặt trước Sim's Cozy ra đón, và tại đó đã lấy được túi đựng Permit và vé máy bay vào Tibet. Buổi tối hôm đó là một bữa lẩu Tứ Xuyên cay phồng môi tràn nước mắt. Những đoạn này thôi không nói nhiều.
Tại Sim's, bảng thời tiết cho biết nhiệt độ Lhasa là từ (-4) đến (+14) độ, đồ rét bắt đầu được lấy ra. 4h30 lục tục lôi đồ ra để bay chuyến 6 rưỡi sáng.
Đi khá sớm khi trời còn tối om, nên tôi gà gật một lúc, đến khi choàng nhìn ra ngoài cửa sổ, thì thấy biển mây đang lùi lại, nhường chỗ cho những đỉnh núi vươn lên.
Phía đằng sau là bồn địa Tứ Xuyên, và bên phải đã là vùng núi non của cao nguyên Tibet, vùng đất của chư thiên. Những đám mây bị núi chặn lại trải ra mênh mông, và núi cũng trải ra bát ngát. Có thể thấy rõ những mạch núi do các mảng lục địa đẩy lên xếp chồng lên nhau nhấp nhô trập trùng. Mặt trời còn ẩn đâu đó...
Last edited by Chitto; 29-11-2013 at 10:54.
Cao nguyên tuyết
Ánh sáng bắt đầu lan tỏa, một dòng sông uốn lượn dưới đáy thung lũng, một con đường vắt qua dãy núi. Một bên là đường của Mẹ tự nhiên dành cho các dòng nước, tìm chỗ thấp mà đi; một bên là đường của Con người tạo dựng, tìm chỗ cao mà tới.
(Hãy nhìn kĩ đường đèo gấp khúc vượt qua núi non)
Và khi những tia nắng đầu tiên chiếu rọi, núi rực lên như lửa cháy. Trong mình hình như cũng đang cháy, một cảm giác tự do thoát khỏi những gì bình thường tối tăm, đang rừng rực.
29-11-2013, 11:50#27
Re: Tây Tạng mùa đông - Đi về phía Đông Lhasa
Hôm đó vào Potala, tới Tháp táng của Vị Dalai Lama thứ 9, bỗng nhiên tôi quay sang hỏi Tenzin (bạn guide người Tạng rất dễ thương, tên của Tenzin được đặt theo tên của vị Dalai Lama cuối cùng: Tenzin Gyatso):Các thế hệ tái sinh của Dalai Lama từ năm 1391 như sau:
1. Gendun Drup: sống 83 năm
2. Gendun Gyatso: sống 67 năm
3. Sonam Gyatso: sống 45 năm, chính thức nhận Dalai Lama năm 35 tuổi
4. Yonten Gyatso: sống 28 năm, lên ngôi năm 14 tuổi
5. Ngawang Lobsang Gyatso: sống 65 năm, lên ngôi năm 5 tuổi
6. Tsangyang Gyatso: sống 23 năm, lên ngôi năm 14 tuổi
7. Kelzang Gyatso: sống 50 năm, lên ngôi năm 13 tuổi
8. Jamphel Gyatso: sống 46 năm, lên ngôi năm 4 tuổi
9. Lungtok Gyatso: sống 10 năm, lên ngôi năm 3 tuổi
10. Tsultrim Gyatso: sống 21 năm, lên ngôi năm 6 tuổi
11. Khendrup Gyatso: sống 18 năm, lên ngôi năm 4 tuổi
12. Trinley Gyatso: sống 18 năm, lên ngôi năm 3 tuổi
13. Thubten Gyatso: sống 57 năm, lên ngôi năm 3 tuổi
14. Tenzin Gyatso: lên ngôi năm 5 tuổi.
- Tenzin, sao ông ấy chỉ sống được 9 năm.
Tenzin cười.
- Lym, Sao lại hỏi tôi như vậy? Tại sao lại có người sống lâu trăm tuổi. Tại sao cô lại bị ốm?
- Tôi nghĩ các Dalai Lama đều biết khi nào họ chết. Tôi buột miệng.
- Cô nói đúng. Các ngài đều biết khi nào mình sẽ đi. Nhưng họ không can thiệp vào điều này. Họ có nhiều quyền năng. Nhưng họ không lợi dụng thần thông.
Chuyện ở Potala khiến tôi cứ nhớ mãi. Người Tạng, sao đức tin của họ lại cao đến vậy.
Tây Tạng mùa đông - Đi về phía Đông Lhasa
À, có câu chuyện về Dalai Lama thứ 13:
Vào cuối năm 1933 Dalai Lama 13 đã đưa ra lời tiên đoán rằng Tibet sẽ sớm rơi vào tai họa đau thương, người Tibet sẽ rơi vào cảnh nô lệ, những gì mà Ba vị chính pháp vương xây dựng từ xa xưa sẽ bị tiêu diệt, từ Dalai Lama, Panchen Lama (Ban Thiền lạt ma) tới các Lama khác sẽ bị xua đuổi, lưu đày.
Chính vì vậy dù còn khỏe ngài đã quyết định từ trần sớm, để cho hóa thân tái sinh tiếp theo có đủ tuổi trưởng thành khi tai họa xảy ra và lãnh đạo người Tibet tìm cách vượt qua khổ nạn. Vài tháng sau lời tiên đoán đó, Dalai Lama thứ 13 mất.
Dalai Lama thứ 14 ra đời năm 1935, được tìm thấy năm 1937 và lãnh đạo tinh thần người Tibet từ đó đến nay.
Lhamo Latso
Từ trên cao, những dãy núi tuyết, những thung lũng sâu, những dòng sông uốn khúc hiện ra rõ mồn một.
Và tôi để ý thấy một khuôn hồ dài ngay bên dưới. Có một điều gì đó kì lạ. Bốn phía núi phủ tuyết, mặt hồ vẫn không bị đóng băng, bình yên nằm ngủ. Tôi chụp ảnh lại.
Đến Lhasa, đối chiếu với mọi người, với các bức ảnh, với đường bay, tôi nhận ra và tin chắc rằng đó chính là hồ thiêng Lhamo Latso, nơi mà Nữ thần Palden Lhamo ngự. Như thế, chúng tôi không đến được tận nơi để soi mình vào mặt nước hồ, tôi vẫn tin rằng mình đã được soi vào hồ dù chỉ là từ trên một khoảng cách rất xa.
Và chợt nghĩ: mình đã được thấy Hồ thiêng, nhưng còn Dalai Lama thì từ hơn 50 năm qua đã không bao giờ được nhìn lại mặt hồ, và có lẽ sẽ không bao giờ được nhìn lại mặt hồ này nữa dù là từ trên cao.
Hàng trăm năm qua, và hàng nghìn vạn năm nữa, sẽ có bao nhiêu người gặp được nữ thần Palden ?
Yarlung Tsangpo
Những đỉnh núi tuyết lấp lánh trong nắng trôi qua, cao nguyên tuyết mênh mông. Chúng tôi nhìn thấy dãy Meily (Mai Lý), thấy ngọn Namche Barwa ở phía xa, rồi những hẻm núi ngay dưới chân. Nắng đã lên rồi.
Và rồi dòng Yarlung Tsangpo uốn lượn hiện ra, như một nét vẽ ngẫu hứng của tạo hóa, như một mảnh gương kì lạ uốn éo qua bình nguyên hoàng thổ điểm những chấm vàng rực. Dòng sông này bắt nguồn tít phía Tây, gần núi thiêng Kailash, chảy qua bên dưới Lhasa sang phía Đông rồi ngoặt về Nam, hội với dòng sông Hằng để đổ ra biển cả.
Trên triền đồng bằng của dòng sông này, những bộ tộc Tibet đã tập hợp nhau lại, hình thành vương quốc rồi xây dựng đế quốc, rồi tan rã và khắc khoải. Người Tibet tôn thờ Núi, tôn thờ Hồ, nhưng nếu tôn thờ Sông, thì đây sẽ là dòng sông Mẹ của Tibet. Trong chuyến đi chúng tôi cũng đã đi dọc theo cả dòng chính và chi lưu của con sông này, có lúc sôi trào và có lúc bình yên.
Lhasa
Mọi người nói rằng giữa tháng 11 là vào mùa đông, Tibet sẽ chỉ có tuyết trắng thôi.
Chúng tôi nói rằng mùa đông Tibet còn rất nhiều màu sắc nữa. Và đây, màu vàng rực của cây lá, của nắng, của đất cao nguyên.
Máy bay hạ cánh xuống sân bay Gonggar nằm giữa hai dãy núi.
Lhapka đã chờ sẵn ở bên ngoài, quàng vào cổ mỗi người một chiếc khăn trắng: "chan-xi-tê-lê" !! Lời chào mừng ấy theo suốt chúng tôi trên chặng đường. Trên đường, ở thị trấn, giữa đồng, trong tu viện, khi gặp người Tạng chúng tôi lại chào "chan-xi-tê-lê", và mỉm cười nghe lời chào lại.
Nắng vàng rực. Xe nhanh chóng đưa cả đoàn vượt qua con đường cao tốc (mà trong ảnh trên nhìn thấy đâm thẳng vào núi ấy), chui qua hầm Lão Hổ để về Lhasa. Vì buổi sáng dậy sớm, trên máy bay lại chong mắt ra nhìn nên lúc này tôi buồn ngủ quá, gà gật một lúc. Cho đến khi xe dừng lại: Trạm kiểm soát đầu tiên của TQ. Giấy phép phải trình ra. Sự ngột ngạt đã dần trào lên.
Rồi Lhasa hiện ra, với những khối nhà khô cứng, một vòng đu quay to đùng, những mảng màu đỏ choét với chữ Hán trắng vàng lòe loẹt. Dù đã được biết trước Lhasa giờ đã là một thành phố TQ sầm uất, tôi vẫn thấy ngột ngạt mệt mỏi. Dù chàng Tenzin chỉ tay về phía xa kêu "Potala" tôi vẫn không cảm thấy vui, vì giữa đám nhà lổng chổng đó, tòa cung điện xa xa lọt thỏm làm sao.
Và ngay cả khi xe chạy ngang qua dưới chân Potala, tay tôi bấm máy ảnh đó, mà cũng không có cảm xúc.
Tôi phải chờ một Potala trong một lúc khác, không phải lúc này, khi vừa phóng qua đường cao tốc và đi giữa những khối nhà thô kệch kia...
Lhasa
Xe dừng ở khách sạn Yak, nơi chúng tôi nghỉ hai đêm trước khi thực sự tiếp tục hành trình về phía Đông. Tenzin dặn dò kĩ rằng trong ngày đầu ở Lhasa không được tắm, không được đi nhiều để tránh sốc độ cao. Tôi chưa cảm thấy gì của cái gọi là bệnh vì độ cao cả, có thể vì Lhasa chưa đủ cao lắm (3500m) nhưng mà kể cả về sau lên chỗ cao hơn ngủ đêm tôi cũng không sao.
Nhưng nghe lời tất cả các bạn, tôi cũng đi lại nhẹ nhàng. Phòng ở trên tầng 3, cũng hơi lo ngại khi nghĩ đến việc chuyển vali lên đó. Trước kia các chuyến tôi đều mang balô to vác trên vai, nhưng lần này nghe mọi người mang vali kéo. Đang nhấc lên được vài bậc thì một chị nhân viên líu lo nói gì đó giằng lấy. Thế rồi hai tay hai vali, a lê hấp chị xốc thẳng lên tầng. Tôi chỉ phải xách cái balô nhỏ với mấy thứ linh tinh hớn hở đi theo.
Sau bữa trưa nhẹ và giấc ngủ sâu, 4h chiều là giờ dạo phố.
Đây là con phố Bắc Kinh Đông lộ ngay phía ngoài khách sạn. Thứ Hai nên phố không đông lắm, nắng thì rõ to, mà trăng thì lơ lửng. Những chiếc xích-lô đều do người Tạng đạp, những chàng trai tóc dài lãng tử nhưng khắc khổ lam lũ. Nhều xe bật nhạc rộn ràng nhưng không dấu nổi vẻ vất vả. Bề mặt những ngôi nhà dọc phố chính được làm cho có phong cách Tibet, nghe nói đó là thành quả của thị trưởng mới trong mấy năm gần đây.
30-11-2013, 23:33
Những con quỷ đất Tạng
Trong sảnh khách sạn Yak nơi chúng tôi nghỉ có treo một bức tranh, bức tranh đó đây:
Nếu nhìn kĩ thì có thể thấy đây chính là bản đồ của Tibet. Tín ngưỡng Tibet cho rằng đất Tibet nằm trên một con quỷ, một Nữ quỷ khổng lồ nằm ngửa tên là Simon, mạch máu màu xanh trên người nó là các dòng sông, thân thể nó là các dãy núi. Nữ quỷ vương nằm đó không nhúc nhích là vì trên tay chân của nó có các tu viện lớn, những quyền năng thiêng liêng của đức Phật trấn giữ.
Và ngay vị trí của ngực trái con quỷ, chính là thủ đô Lhasa, tim nó chính là vị trí của đền Jokhang.
Có thuyết nói người trấn giữ Quỹ nữ Lhasa là công chúa Văn Thành, hoặc công chúa Nepal, lại có thuyết nói là Liên Hoa Sinh đại sư. Thứ trấn giữ bền vững muôn thuở là pho tượng Jowo Sakyamuni.
Và tôi thì nhớ đến một con quỷ khổng lồ hơn nữa của Tibet: Đó là Quỷ vương đang ôm lấy bánh xe Lục đạo luân hồi của tất thảy chúng sinh. Đồ hình Lục đạo luân hồi này vốn xuất phát từ Tibet, mà nay thì các chùa ở Việt Nam, ở TQ đều có.
Như thế tất thảy đều nằm trên những con quỷ khủng khiếp. Nhưng tất cả đều bị nhiếp phục bởi Phật pháp.
Last edited by Chitto; 06-12-2013 at 17:21.
Nữ thần Palden Lhamo
Hình tượng những con quỷ ghê rợn này vốn từ đạo Bon, đã được Phật giáo Tây Tạng hấp thu trong quá trình hội nhập. Những con quỷ là hình tượng xa xưa của những thế lực thiên nhiên mà người Tibet kính sợ, rồi đã từng được bổ sung thêm bởi những hình ảnh từ Ấn Độ giáo.
Chắc mọi người còn nhớ câu chuyện về mặt hồ thiêng liêng Lhamo Latso, nơi ngự của nữ thần Palden Lhamo, là nữ thần Bảo hộ toàn cõi Tây Tạng, bảo hộ riêng đất Lhasa, và Bảo hộ dòng truyền thế của các Dalai Lama. Nữ thần này cũng vốn là vị thần của đạo Bon cổ xưa, và vì thế trong tâm thức người Tibet, cũng có hình tướng khủng khiếp.
Có thể nói hình tướng của Nữ thần Palden Lhamo là khủng khiếp nhất: Người xanh lè, lòng bàn chân bàn tay đỏ hồng, móng vuốt dài nhọn, một tay cầm giáo lửa, một tay cầm cái cốc sọ người chứa đầy máu đưa lên miệng uống. Nữ thần có ba con mắt lồi với lông mày rậm, miệng rộng đầy răng nhọn, trên đầu đội mũ miện đầu lâu người, tóc dựng ngược là những quầng lửa. Nữ thần cưỡi một con la, mà tấm đệm trải chính là bộ da người - chính xác hơn là bộ da của đứa con trai của nữ thần, và đang phóng qua biển máu. Xung quanh là các quầng khói lửa ngùn ngụt. Hình tướng này mang nhiều biểu tượng của Ác thần Kali trong Hindu giáo.
Lạ thay, hình tướng ghê rợn đó lại chính là vị Phúc thần cao quý của Tibet, của các Dalai Lama Phật vốn là hóa thân của Quán Thế Âm - bậc đại từ đại bi.
Những ý nghĩa sâu xa đằng sau chuyện đó viết ra thì dài quá, tôi lại lan man mất rồi...
Last edited by Chitto; 30-11-2013 at 23:59.
01-12-2013, 00:07
Nhầm đường
Bước ra khỏi khách sạn trong nắng chiều, mục tiêu của mấy đứa là đến quảng trường Barkhor trước đền Jokhang, trái tim của Tibet. Hỏi đường thế nào mà một người chỉ cứ đi thẳng đi, đi thẳng đi. Ừ thì đi thẳng.
Phố chính rất rộng, cửa hàng cửa hiệu sầm uất, có rất nhiều thương hiệu lớn. Màu sắc TQ tràn ngập cứ gọi là thôi rồi Lhasa ơi. Vừa đi vừa thắc mắc là sao người trong khách sạn nói gần lắm mà đi mãi thế này. Chả mấy chốc đi qua đến mấy cái ngã tư, tôi nhìn bảng chỉ dẫn cũng chả thấy chữ Đại chiêu tự (tức là Jokhang) đâu. Nói thêm là tôi chỉ biết mặt một ít chữ Hán, còn nói và nghe thì chịu, đến mặc cả con số cũng chỉ dùng phương thức "xòe bàn tay đếm ngón tay" thôi.
Thế rồi bỗng thấy cái này lù lù trước mặt, nhầm đường đến hơn 1km rồi !
Potala
Khi vị vua đầu tiên của Tibet chống lại Zhangzhung, ông đặt thủ phủ tại thung lũng Yumbalagang, cách Lhasa hơn 60km. Songtsan Gampo (Tùng-tán Can-bố) đã lấy thung lũng rộng rãi hơn này làm thủ đô vào năm 640. Giữa thung lũng Lhasa có một quả đồi cao, gọi là Đồi Đỏ vì màu đất của nó đậm hơn các dãy núi xung quanh. Songtsan Gampo xây dựng trên đỉnh đồi một lâu đài nhỏ, mang tên là lâu đài Đỏ. Cung điện của ông thì nằm quanh đồi, và triều đình Tibet trong 200 năm vẫn vây quanh quả đồi này.
Trải hàng trăm năm Lhasa mất vị trí thủ đô, đến tận thời Tsongkhapa (Tông Khách Ba) Đại sư cải cách Phật giáo, mới lấy thung lũng này làm trung tâm, và lập ba tu viện Drepung, Sera, Ganden ở ba phía thung lũng.
Năm 1645, nghĩa là 1000 năm sau Songtsan Gampo, Dalai Lama thứ 5 sau khi nắm chính quyền đã quyết định không ngự tại tu viện Drepung nữa, mà xây dựng một cung điện để trị vì Tibet. Ngài đã chọn ngọn Đồi Đỏ để xây dựng cung điện. Cung điện xây được hơn 30 năm thì Dalai Lama 5 mất, mà vẫn chưa xong. Các trưởng lão quyết định không phát tang mà chờ đến khi xây xong cung, làm xong tháp mộ vàng mới phát tang. Thế là phải chờ gần 15 năm nữa, cung điện mới hoàn thành.
Các Dalai Lama được tôn là hóa thân của Avalokitesvara - Quán Thế Âm bồ tát, mà theo truyền thuyết Quán Thế Âm ngự tại đạo tràng là núiPotalaka (Núi Phổ Đà), vì thế cung điện cũng được đặt tên là Potala.
Công trình vĩ đại mất 45 năm xây dựng, với 1 triệu lao động, cao 13 tầng với 1000 căn phòng này là đầu não của Tibet trong gần 400 năm tiếp theo.
Vì chúng tôi dành ngày cuối của cuộc hành trình để vào thăm nơi đây, tôi sẽ viết về nơi này kĩ lưỡng hơn ở những ngày cuối.
Còn buổi chiều hôm đó, chúng tôi đi dạo và chơi phía trước cung điện, tất nhiên là sau khi đã đi qua cửa kiểm soát an ninh có máy soi của công an TQ !
Re: Tây Tạng mùa đông - Đi về phía Đông Lhasa
Không ngủ được (chắc vì shock độ thấp) làm clip tặng mọi người vậy!
Potala
@Lymy: Tks nhìu nhìu !!!
Phía bên ngoài cửa chứ Potala có một số người làm lễ Ngũ thể nhập địa trước cung điện của các vị Dalai Lama. Không biết người đàn ông này đã hành lễ bao nhiêu lần? Cung điện xa quá, nhưng với tâm thức thành kính, chắc hẳn với ông nó lại ở rất gần.
Trước cửa chính cung Potala chim bồ câu được cho ăn nên đậu khá nhiều. Một đứa bé chạy đuổi những cánh chim và hét lên những tiếng thích thú. Tôi ước mình bé lại.
Quảng trường
Đối diện cung Potala xưa kia là một đầm nước, nhưng giờ đã thành một quảng trường, với đài kỉ niệm to cao và một cột cờ của Trung Quốc, ban ngày luôn có 2 lính đứng gác.
Câu chuyện lính Giải phóng Nhân dân TQ (PLA) thập kỉ 50 tiến lên đây và Hồng vệ binh thập kỉ 60 - 70 thế kỉ trước có lẽ chỉ còn trong tâm trí những người già. Những người thế hệ sau dần cũng sẽ quen với hình ảnh thế này.
Để vào cái quảng trường kia phải đi qua trạm kiểm soát, và dày đặc camera theo dõi. Sự tồn tại của chúng là khó chịu rồi, mà khó chịu hơn nữa là lại cấm được cả việc chụp ảnh chúng hoặc tỏ ra chú ý tới chúng !!! Thành ra người ta cứ phải giả vờ như là tự nhiên không biết gì, trong khi biết rõ cái đám camera đang chòng chọc nhìn minh; hoặc là giả vờ nhí nhảnh nhìn vào nó theo kiểu "tao biết mày rồi, mày chả làm gì tao được đâu" trong khi trong bụng chỉ muốn kiếm hòn đá ném cho vỡ nó đi.
Tắt nắng
Bảy giờ rồi, mặt trời đã xuống sau những dãy núi vây quanh Lhasa. Mọi người nói Lhasa tối muộn lắm, nhưng đấy là mùa hè, còn đây là mùa đông.
Nắng cũng đã tắt rồi. Phải đi tìm chỗ ăn thôi. Chúng tôi đi bộ lang thang cũng mấy tiếng đồng hồ, vi phạm cảnh báo của Tenzin về ngày đầu tiên trên đất Tạng rồi đấy.
Khoản ăn uống thì mình viết không được ngon lắm, hehe.
Re: Tắt nắng
Thì nó đã là một bảo tàng rồi còn gì bác ! Khoảng 1 nghìn phòng trong này còn vài chục phòng được vào tham quan, còn lại nghe nói đã trống rỗng hết. Vài trăm nghìn văn vật, tài liệu, thư tịch cổ trong tòa cung điện này đã bị cướp phá, thiêu hủy, hủy hoại trong Cách mạng văn hóa.
Cũng may còn nhờ công Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai mà giữ được vài nơi quan trọng với những báu vật quí giá nhất. Nhưng kinh sách thì đã bị đốt hết rồi. Potala mấy chục năm nay đã chỉ còn là một tòa nhà hấp hối dành cho khách tham quan mà thôi.
Nếu không có những người Tibet vẫn đến đây hành lễ, kora vòng quanh để giữ lại nhịp thở thoi thóp, thì Potala đã chết rồi.
Last edited by Chitto; 01-12-2013 at 18:40.
02-12-2013, 00:18
Chuyện ăn uống
Cái chuyện ăn uống, nói thế nào nhỉ, tôi cũng là người dễ tính. Nói chung trong tất cả các chuyến đi, dù đi đến địa phương nào, cũng thấy đồ ăn ngon cả. Hoặc giả như chuyến Trung Đông, có 2 ngày chỉ ăn lương khô cũng được, 3 ngày toàn ăn bánh kếp với mứt và kem (cái loại mà hostel phục vụ khách đồng loạt ấy) cũng không sao.
Nhưng mà nếu có ăn ngon thì tất nhiên là khoái rồi.
Lần này trong nhóm có 2 trường phái: một là phải ăn như người Tạng, và hai là cái gì ngon thì ăn bất kể Tạng hay Hán. Vì nhóm từ HN là theo trường phái thứ hai nên tôi chủ yếu là ăn ngon ! Thỉnh thoảng có lúc ăn kiểu Tạng - vẫn thấy ngon như thường dù có nhiều người hay nói đồ ăn Tạng không ngon.
Buổi tối đầu tiên, bốn đứa tình cờ tìm thấy trong một ngõ có chữ Bistro, mò mẫm trèo theo một cầu thang nhỏ lên tận tầng 3, và rồi : ÒA : chui vào giữa một quán trang trí hoàn toàn kiểu Tạng, thế nhưng chủ quán nói tiếng Anh tốt. Mãi về sau mới biết vợ chồng chủ quán bán được 5 năm rồi, và cũng là dân phượt, thích đi đây đó và từng đến Việt Nam.
Thế là bữa tối đầu tiên ở Lhasa hoành tráng với khai vị bằng món trà bơ, món chính là lẩu bò Yak, tráng miệng cũng là trà bơ.
Phải nói thêm là thường quán trà sẽ phục vụ trà sữa; trà bơ vị mặn và ngậy hơn nhiều, ai thưởng thức được thì đều khoái và ấn tượng với món này.
Jokhang
Lhapka nói rằng thời tiết khi chúng tôi đến là rất tuyệt. Trước đó 2 tuần ở Lhasa tuyết rơi dầy "đến 60cm", thế nhưng lúc này trời trong vắt không có một tí mây, tí tuyết nào. Đợt này đêm xuống khoảng âm 5 độ và ngày trong bóng râm khoảng gần 10 độ, mùa đông thế là ấm rồi.
Sau đêm đầu ngủ rất ngon, chúng tôi dậy sớm. Trời đã hửng nhưng chưa có nắng vì vây quanh Lhasa là núi cao, chúng tôi đã rời khách sạn để đến quảng trường Barkhor và đền Jokhang. Để vào đây, lại phải qua kiểm tra an ninh.
Đền Jokhang là trái tim của Lhasa, trái tim của Tibet. Ngôi đền được xây dựng từ gần 1400 năm trước thờ pho tượng Phật quý giá nhất của toàn cõi Tibet cũng như cả vùng Bhutan, Nepal, Tứ Xuyên, Thanh Hải, Vân Nam. Người Tibet hướng về thánh địa này như là cội nguồn cõi tâm linh của họ. Ngay từ xa đã có những người làm lễ Ngũ thể nhập địa liên tục liên tục.
Khi chúng tôi bước vào quảng trường Barkhor trước đền, còn mờ tối nhưng những ánh lửa từ các lò đốt hương đã đỏ rực, khói bốc nghi ngút, và những hàng người đang đi kora quanh đền không ngừng nghỉ.
(Ghét nhất là trên nóc đền cắm một thứ chối tỉ cao ngỏng nghoẻo. Chúng tôi thỏa thuận là từ giờ những bức ảnh chụp mà bị vướng cái thứ thô bỉ ấy thì sẽ dùng công nghệ xóa nó đi.)
Sự tích Jokhang
Sự tích kể rằng vua Songtsan Gampo dựng hai ngôi đền để tôn trí hai pho tượng Phật do hai bà vợ người Nepal và người Trung Hoa đem vào. Đền Jokhang được dựng để thờ pho tượng Jowo Mikio Dorje của công chúa Nepal và đền Ramoche thờ pho Jowo Shakyamuni của công chúa Văn Thành. Thế nhưng sau pho của công chúa Văn Thành lại chuyển đến để bên trong đền Jokhang và rồi một ngày thế vị pho tượng kia, pho của công chúa Nepal lại rời đến Ramoche.
Có thuyết đẹp đẽ cho rằng hai bà vợ để tỏ sự hòa thuận nên đã đổi hai pho tượng cho nhau, nhưng tôi không tin thế ! Tôi thì nghĩ rằng nếu có chuyện đổi vị trí hai pho tượng thì chính là do vai trò quyền lực chính trị của hai bà hoán đổi. Bà Nepal tuy là vợ cả, nhưng có lẽ vai trò đã thua kém, hoặc là vào đời sau, khi vua Tạng lấy công chúa Kim Thành, thì vai trò của vị "Phật từ Trung Hoa" đã lấn át vai trò Phật giáo từ Nepal.
Sự tích thì vậy, nhưng khi sau này nhìn tận mắt pho tượng Jowo Shakyamuni thì tôi cũng rất thắc mắc, một pho tượng to như thế, cao đến ba mét và nặng một tấn rưỡi, liệu có thể là đồ mang theo của một công chúa từ cách xa hàng nghìn cây số. Hơn nữa pho tượng đó - theo như kiến thức của tôi - không mang dánh vẻ pho tượng đời Đường; nó mang phong cách tượng Ấn Độ cùng thời kì nhiều hơn. Chuyện gì đã xảy ra thời xa xưa nhỉ ? Có những bí mật gì, những đổi thay gì đã ẩn chứa trong lòng ngôi đền thiêng, mà rồi sử sách không còn ghi lại được?
Dẫu sao với người Tibet, đây vẫn là chốn nương tựa tâm linh.
Sự tích Jokhang
Lại có một sự tích nữa, đó là nơi xây Jokhang xưa là một cái hồ nước, ở giữa trái tim của Nữ quỷ. Khi xây đền đổ bao nhiêu đất đá xuống cũng không được. Cuối cùng công chúa Văn Thành ném một cái nhẫn của mình xuống, và cho dê chở đất đến đổ vào thì được, vì chỉ đất do dê chở đến mới lấp được hồ. Truyền thuyết không nói tại sao chỉ con dê mới có tác dụng nhỉ ? Thế bò, ngựa, lừa, la thì sao ?
Tôi thì muốn suy nghĩ rõ hơn một chút. Trước thời xây Jokhang, đây vẫn là vùng đất của đạo Bon, mà hình ảnh Nữ quỷ chính là từ đạo này, là tượng trưng của đạo này. Đạo Bon sơ khai là tín ngưỡng shama, kiểu lên đồng của nhà mình ấy, với các màn nhảy múa nhiếp tâm, thầy pháp nhảy múa, đồng thời có hiến tế. Hiến tế cổ đại của Tibet ở đây thường dùng dê, vì dê nhiều và không quá đắt, quá quí như bò và lừa ngựa. Có thể cái hồ xưa chính là nơi hiến tế dê cho nữ thần đạo Bon.
Khi Songtsan Gampo muốn từ bỏ đạo Bon, ông đã coi nữ thần như Nữ quỷ và cho lấp hồ. Với tư tưởng Phật giáo không sát sinh, chính ông đã dùng những con dê - những vật hiến tế hi sinh trước kia - để lấp chính đạo Bon, lấp cái hồ của tôn giáo cũ. Như thế bầy dê và đền Jokhang là biểu tượng của sự chiến thắng của Phật giáo trước tín ngưỡng cổ đại.
Những suy nghĩ trên của tôi không đọc từ đâu cả, không có bằng cớ nào, đó có thể chỉ là tưởng tượng mà thôi.
Dù sao có một suy nghĩ riêng của mình về chốn này, tôi cũng thấy vui rồi.
Kora
Hòa vào dòng người, tôi cũng đi Kora vòng quanh Jokhang, theo chiều kim đồng hồ.
Phía trước đền có hai cột phướn cao, và bốn phía đền cũng có bốn cột phướn nữa. Người đi kora phải vòng ra ngoài các cột phướn, và nhiều người chạm đầu vào cột, cầu nguyện. Quanh tôi tiếng cầu nguyện lầm rầm, những chiếc chuyển kinh luân quay quay trên tay của những người phụ nữ, những ông già, những tràng hạt được lần liên tục, những bước chân đều đặn, những dáng người lắc lư.
Thường xuyên có những người hành lễ ngũ thể nhập địa, và những người đi tản ra xung quanh họ. Có người đứng tại chỗ và làm lễ ngũ thể nhập địa ra bốn phía, trán của ông đã là một vết chai lớn do mài xuống mặt đá quá nhiều lần. Lại có cả đứa trẻ cũng hành lễ theo mẹ của mình. Tất cả diễn ra đều đặn như thế đã cả nghìn năm.
Một vòng kora sắp giáp vòng, nắng đã lên vàng như rót mật.
03-12-2013, 10:34#61
Barkhor
Nắng đã lên, những lớp người vẫn tiếp tục hành lễ
Quảng trường Barkhor tràn nắng, và với bức ảnh dưới, tôi đã thực hiện kĩ thuật để xóa đi cái thứ chướng mắt
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Một dòng người Tibet xếp hàng vào đền, quấn vòng quanh đến 1/3 đường kora nhích từng bước một là biết trong đền đông đến thế nào. Những người xếp hàng hầu hết đều cầm một cái phích hoặc một gói to. Phích đựng bơ bò lỏng để rót vào đèn cúng, còn gói bơ cứng thì sẽ dùng để xắn từng miếng nhỏ bỏ vào đèn.
Sáng hôm đó, chúng tôi không vào Jokhang. Potala và Jokhang dành cho ngày cuối của hành trình. Để dành những thứ tinh hoa nhất do con người tạo dựng sau khi đã thưởng thức thiên nhiên, có lẽ cũng là một cách hay.
Rời quảng trường, chúng tôi ghé vào một quán trà Tạng trên phố. Trông bên ngoài quán không có gì đặc biệt vì tấm rèm vải nặng phủ kín, nhưng bước vào trong là cả một không gian Tạng tràn ngập. Có cả trăm người trong quán, ngồi quanh những chiếc bàn gỗ dài, già trẻ lớn bé trò chuyện râm ran bên những cốc trà sữa. Có người ăn mì, có người hút thuốc, nhưng ai cũng uống trà.
Trà sữa trong quán không giống trà bơ chúng tôi uống tối qua. Trà sữa ngọt hơn và bớt nồng hơn, giá 7 hào một ly. Bốn năm người phụ nữ đeo tạp dề trước bụng rất nhanh nhẹn cầm những phích trà đi rót. Trước tạp dề là hai cái túi vải, một bên để tiền chẵn (tệ), một bên để tiền lẻ (hào). Các bà rất nhanh chóng thu tiền của khách để trên mặt bàn rồi rót trà vào cốc. Rồi bàn nào trống thì họ để phích lại, rồi cầm chồng cốc vào trong.
Không gian đặc quánh khói thuốc, hơi người, nên rất ấm.
Chúng tôi cũng mỗi người một bát mì và vài ly trà. Ba thằng con trai chén ba ly, còn chị em thì một hoặc hai là thấy đủ.
Re: Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Đọc phần về Jokhang của anh Chitto, mới giật mình, Jokhang nổi tiếng đến mức này sao???
Nhưng Jokhang đối với Lym thì không cao sang như vậy. Dù Jokhang có nổi tiếng đến đâu, điều đó cũng không ảnh hưởng đến một cảm nhận của tôi, Jokhang is home.
Trước khi rời khỏi Lhasa và sau khi trở về Lhasa, sáng nào tôi cũng ở Jokhang. Có điều gì đó thôi thúc khiến cho chỉ ngồi ở bậc thềm quanh Kora của Jokhang thôi, để ngắm nhìn những khuôn mặt Tạng, già trẻ lớn bé, với những nếp nhăn đẹp như tranh vẽ bởi sự lão hoá dưới thời tiết khắc nghiệt, cũng là một cảm xúc không thể nói nên lời.
Đoàn người ở Jokhang, họ sẽ làm cái điều mà có lẽ từ khi sinh ra và lớn lên họ đã thân quen, tay quay Chuyển Kinh Luân, miệng lầm rầm kinh Phật, đi Kora quanh đền, chờ đón tia nắng bình minh đầu tiên của một ngày mới.
Tôi đi theo một bà cụ già tay đang lần tràng hạt để thực hiện một vòng Kora, bà ấy thấy rõ sự lúng túng của tôi khi đi theo bà. Bà ấy dừng lại, cười, nụ cười ấm áp của một người Tạng kính Phật, rồi bà ấy dắt tôi đi vòng quanh một cột cờ lớn đã treo kín Lungta, ba lần, và ra hiệu, đi như thế này tốt lắm. Bà ấy dạy tôi chạm trán của mình vào lungta. Tôi đã khóc. Có phải Jokhang đã khiến tôi mềm yếu, hay chính là sự chân thanh của những người Tạng hồn hậu này.
Vào Jokhang là một trải nghiệm quý báu, nhưng những gì ở phía ngoài đền Jokhang mới thực sự là Di sản, tôi đã nghĩ như thé
Last edited by lymy; 03-12-2013 at 11:47.
Re: Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Theo bộ phim tài liệu “Đường Bồ Đề nghìn năm” (千年菩提路)của Đài Truyền hình TW TQ sản xuất với nội dung kể về sự du nhập, hình thành và phát triển Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Quốc, trong phần nói về Tây Tạng có giải thích về mấy pho tượng như sau:
Sinh thời, đức Phật chỉ đồng ý cho các đệ tử tạc 3 pho tượng khi Ngài 8 tuổi, 12 tuổi và 25 tuổi. Hiện nay, pho tượng 25 tuổi ở Ấn Độ, còn hai pho tượng 8 tuổi và 12 tuổi ở Tây Tạng.
Theo sách “Di giáo Songtsan Gambo” hoặc theo “Sử ký”, pho tượng 12 tuổi được vua Ấn Độ là Darma Bala (Sử ký chép là Pháp vương Ấn Độ Darmo Bolo) tặng cho vua Tần Phó Kiên (338-385) vì đã giúp đánh giặc ngoại xâm. Sau này công chúa Văn Thành vào Tây Tạng, vốn là người sùng đạo Phật đã mang theo làm của hồi môn. (Điều này trả lời Bác Chitto tại sao pho tượng Phật này lại không mang hình hài nhà Đường).
Công chúa Nepal Xích Tôn cũng mang theo pho tượng 8 tuổi vào Tây Tạng.
Lúc đầu pho tượng 8 tuổi được đặt tại Đại Chiêu Tự (Jokhang) và pho tượng 12 tuổi được đặt tại Tiểu Chiêu Tự (Ramoche). Tiểu và Đại ở đây chỉ là tên gọi mà không có ý nghĩa phân biệt to nhỏ. Sau này khi Tùng Tán Cương Bố và các bà vợ mất, mối quan hệ nhà Đường và Thổ Phồn xấu đi, các nhà sư Tạng sợ nhà Đường đòi lại pho tượng 12 tuổi, nên đã bí mật mang pho tượng này giấu trong một căn hầm ở Jokhang và đem trát kín lại. Sau khi nhà Đường và Thổ Phồn kết thân lần nữa, nhằm tránh những rắc rối trong trường hợp hai bên giao chiến, công chúa Kim Thành quyết định giữ pho tượng 12 tuổi ở lại Jokhang và chuyển pho 8 tuổi sang Ramoche. (Như vậy là việc chuyển đổi thực hiện sau này chứ không phải ngay trong thời hai vị công chúa Văn Thành và Xích Tôn).
Thời cách mạng văn hóa, một số người rất thông minh đã giả vờ lấy Jokhang làm kho chứa lương thực nên Jokhang cũng như pho tuợng 12 tuổi được giữ nguyên vẹn, còn Ramoche bị phá huỷ và pho tượng 8 tuổi bị cưa làm đôi và phần thân trên được mang về Bắc Kinh. Cách mạng văn hóa kết thúc, vị Ban Thiền đời thứ 10 được thả sau 9 năm bị giam giữ, đã đi tìm khắp nơi và cuối cùng ông tìm thấy nửa trên của pho tượng đang được cất giữ tại một nhà kho của Tử Cấm Thành, ông mang về Tây Tạng và tìm thợ sửa chữa, rồi tiếp tục được thờ phụng tại Tiểu Chiêu Tự cho đến nay.
Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết,
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Cũng không định đi ngay vào chuyện này vội, mà để sau khi vào trong đền Jokhang chiêm ngưỡng thật gần pho tượng rồi về viết lại, tuy nhiên chủ đề khá sôi nổi nên tôi cũng viết thêm một chút.
Sự tích pho tượng Jowo Shakyamuni mọi người đã nói rất kĩ, và thêm một chút là theo truyền thuyết thì pho tượng này do một vị Trời (thuộc chư thần) chuyên về điêu khắc làm ra, do đó nó là tác phẩm không phải của con người.
Khi tận mắt thấy pho tượng (đã được bỏ lớp áo vàng ngọc bên ngoài) tôi thấy rõ đó là tượng Phật Thích Ca trong tư thế hàng ma, tay trái để ngửa trong lòng, tay phải chạm vào mặt đất (gần giống xúc địa là tư thế chạm tay vào đất để phát nguyện sẽ thành đạo mới đứng dậy). Tư thế này chỉ có được khi đức Phật đã giác ngộ, thành đạo dưới cội bồ đề. Theo các kinh sách chính thức thì Đức Phật thành đạo năm 35 tuổi.
Cũng theo kinh văn chính thức thì pho tượng đầu tiên được tạo ra khi Phật lên trời thuyết pháp cho thân mẫu là Thánh Mẫu Mada vào năm Phật 80 tuổi. Khi đó vua Ưu Đà Diên đã cho tạc tượng Phật để bớt nhớ hình bóng ngài, và người tạo tác cũng là một vị Trời, tạc bằng gỗ thơm.
Khảo cổ thì cho thấy các pho tượng chỉ có sau cả trăm năm sau khi Phật nhập diệt. Như thế ngay cả kinh sách lẫn hình ảnh tạo tác, lịch sử cũng không thấy nhắc đến pho tượng nào khi Phật 8, 12, 25 tuổi.
Truyền thuyết thiêng liêng kia rất đẹp, nhưng nếu nói đó là tượng Phật khi 12 tuổi thì cần phải giải thích ra sao? Những sự thật lịch sử nào ẩn chứa sau pho tượng thiêng liêng đó, có còn những huyền tích phi thường nào nữa hay không?
Viết vậy thôi, nhiều khi ta vẫn luôn cần chấp nhận những điều mà từ truyền thuyết đã được coi như sự thực.
(Cũng chợt nhớ đến tháp vàng Swedagon ở Yangoon, nơi được cho là giữ ba sợi tóc của Phật ngay khi Phật vừa thành đạo, tức là tháp thờ đầu tiên trên thế giới, lập ngay khi Phật vừa mới Giác ngộ - được ghi vào tất cả các tư liệu chính thức)
Pho tượng thiêng liêng - như chính chúng tôi đã được chiêm ngưỡng - Ảnh sưu tầm trên mạng: http://www.rigpawiki.org/index.php?t...owo_Shakyamuni
Nhìn ảnh của PHAM-PEK thì mới thấy cái cây xanh tốt ngay trước Jokhang thì khi chúng tôi đến đã chết khô, đã bị cưa hết cành chỉ còn phần thân và gốc.
Last edited by Chitto; 03-12-2013 at 14:12.
Re: Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
À, mình quên không nói rõ là "truyền thuyết" về ba pho tượng kia không phải được tạc vào lúc Đức Phật 8 tuổi - 12 tuổi hay 25 tuổi (nghĩa là không phải Đức Phật đứng làm mẫu để tạc tượng - bởi ai cũng biết lúc bấy giờ Đức Phật còn đang là thái tử, chưa đắc đạo), mà được tạc mô phỏng khi Đức Phật lên 8, 12 hay 25 (lúc này Đức Phật đã gần 80 rồi). Mình cũng đã từng thắc mắc với một số hòa thượng, tại sao Đức Phật lúc 8 hay 12 tuổi mà lại "to lớn" như vậy, thì cũng được họ giải thích như trên.
Trên thực tế, Đạo Phật tại Trung Quốc du nhập từ Ấn Độ, vì thế đa phần kinh sách và tư liệu đều được dịch ra từ tiếng Ấn hoặc tiếng Tạng. Dưới đây mình dịch một đoạn trong “Tây Tạng Vương thống ký - Minh giám thế hệ vương triều Thổ Phồn” của Danba Sanan Kyantso thuộc phái Sakya viết năm 1328 bằng tiếng Tạng (Vương Lập Thiên dịch ra tiếng Hán).
(Xin lỗi mình không biết tiếng Ấn Độ hoặc tiếng Tạng nên tất cả tên người hoặc địa danh đều được dịch ra từ tiếng Hán):
Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại thành Xá Vệ, giảng kinh thuyết pháp cho các Tỳ Khưu, Tỳ Khưu ny, nam nữ cư sĩ tại địa phương. Một hôm, Thánh giả Văn Thù Sư Lợi buồn rầu nói với Phật tổ rằng: "Đức Thế Tôn, khi người ở cõi đời này, mắt chúng con được chiêm ngưỡng dung nhan Phật, tai chúng con được nghe lời Phật; tâm chúng con được quy y nơi Phật; Nếu một ngày Thế Tôn nhập niết bàn rời xa cõi này, tình cảm của chúng con biết hướng về đâu?” Đức Phật nghe xong, chỉ cười không nói, sau đó từ cơ thể Ngài phát ra bốn luồng ánh sáng, chiếu vào bốn người là Đại Phạn Thiên, La Diên Thiên, Đế Thích Thiên và người thợ có tay nghề rất giỏi là Tì Thủ Kiết Ma. Thế là, Đại Phạn Thiên dâng 5 loại châu báu mời Tì Thủ Kiết Ma tạc ra tượng Pháp Thân của Phật; La Diên Thiên dâng 5 loại châu báu mời Tì Thủ Kiết Ma tạc ra tượng Báo Thân của Phật; Đế Thích Thiên dâng hiến 5 đồ vật quý trên trời như ngọc Nhân Đà La, ngọc Lục Lảo, ngọc Diệu Trang Nghiêm và 5 đồ vật quý trên thế gian như vàng, bạc, chân trâu, san hô, đá quý để mời Tì Thủ Kiết Ma tạc ra tượng Hóa Thân lúc 12 tuổi của Phật. Dì của Phật Tổ (cũng là mẹ kế) Ba-Đu-Ba-Đề nói, Lúc Thích Ca 8 tuổi, đứng cao bằng cái bục ngồi (giảng kinh) trong vườn Lam Tỳ Ny , còn lúc 12 tuổi, đứng trên bậu cửa của thành Xá Vệ, đầu chạm xà ngang, đó là chiều cao của Phật lúc ấy vậy.
Tì Thủ Kiết Ma nung chảy các loại châu báu, đúc tạo nên tượng Hóa Thân 12 tuổi của Đức Phật. Màu sắc giống như Vàng chín, một tay làm thế Kết Định, tay kia là thế Địa Ấn. Tướng mạo trang nghiêm, từ bi, đẹp đẽ. Nghe nói phàm là người nhìn thấy pho tượng này đều có thể giải thoát được nỗi khổ tam độc, nảy sinh tín ngưỡng chân thực, đạt được công đức như thấy, nghe, nghĩ, tiếp xúc, giống như được gặp chính bản thân Phật Tổ. Lúc bấy giờ tự tay Phật tổ làm lễ khai quang, rải hoa đốt nến, rồi cất giữ ở chùa Kim Quang Tọa - Ấn Độ.
Nguyên văn tiếng Hán:
萨迦•索朗坚赞撰写的《西藏王统记�� �(刘立千译):那时,佛尊释迦牟尼� ��在舍卫城,向当地比丘、比丘尼、男 女居士讲经传法。有一天,圣 者曼殊室利忧心重重地对佛祖说:“�� �尊您住世的时候,我们能眼看佛容,� ��听佛语,心有所皈依;如果祖师涅槃 离世,一切有情将依止何处呢?”佛�� �听过,含笑 无言,接着从他身上,发出四道光,�� �别照射到大梵天、罗延天、帝释天和� ��巧之神毗首羯摩身上。于是,大梵天 奉献五种珍宝,请毗首羯摩塑造了佛�� �的法身像; 罗延天奉献五种珍宝,请毗首羯摩塑�� �了佛陀的报身像;帝释天奉献了因陀� ��宝、绿色宝、妙庄严宝等天上五宝和 金、银、珍珠、珊瑚、蓝宝石等人间�� �宝,请毗首 羯摩塑造了佛陀十二岁身量的化身像�� �佛的姨妈(也是继母)波阇波提说,� ��迦八岁时,身量如蓝毗尼园的台座那 么高,十二岁时,脚踏舍卫城的门坎�� �头部触到门 楣,这是他那时候的身量。
毗首羯摩熔化了各种宝物,铸造出佛�� �十二岁身量的化身像。颜色像熟金子� ��一只手做结定的姿式,另一只手做压 地印的姿式。相好庄严,慈和美妙。�� �说凡是见 到这尊像的人,都能够解脱三毒的痛�� �,生起真实的信仰,具足一切见、闻� ��念、触的功德,与见到了佛陀本人一 模一样,没有丝毫差异。当时佛祖住�� �,亲自为身 像开了光,散花加持,最后藏于印度�� �刚座寺。
Đúng là truyền thuyết và chứng cứ khoa học bao giờ cũng có những điểm khó trùng khớp.
Nhưng giống như bác Chitto nói vậy, đôi khi mình vẫn cứ thích tin những truyền thuyết hơn!
Sorry vì làm loãng quá Topic của bác, mời bác tiếp tục, em không quấy nữa!
Re: Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Đúng như bạn Noguy9 nói tôi cũng luôn tin rằng ba bức tượng Đức Phật không được tạc vào thời điểm Người 8, 12 hay 25 tuổi. Nhiều tài liệu đều nói đến việc ba bức tượng này được tôn kính bậc nhất vì chúng không giống hàng triệu bức tượng Phật sau này được tạc khi Đức Phật đã nhập diệt. Lần nào tôi cũng thấy Namsay, Lhakpa hay Tenzin cũng vô cùng tự hào khi nói về việc Tây Tạng (Lhasa) được giữ và thờ phụng trên lãnh thổ của xứ tuyết mình 2 trong 3 bức tượng cao quý này, khiến tôi cũng tự hào ăn theo (hihi). Mà cuối cùng thì dù truyền thuyết về bức tượng Jowo có đúng hay thế nào đi nữa chúng tôi cũng có duyên may thật đặc biệt trong chuyến đi này ở Jokhang, hồi sau sẽ kể các bạn nghe....
Noguy9 có ảnh của cái cột mốc hiệp ước Sino- Tibet 822 ngay trước Jokhang không?
Năm nay trở lại Tây Tạng tôi thấy kiểm soát của chính phủ TQ ngày càng gắt gao hơn rất nhiều so với trước. Chỉ từ sân bay Cống Ca vê tới khách sạn mà chúng tôi phải dừng lại ở 5 trạm kiểm soát. Hành trình thăm thú của chúng tôi tới một loạt các địa điểm sau này như Reting, Lamaling hay nơi ở tại Basumtso, Tsetang, Samye cũng đều bị cảnh sát kiểm tra rất gắt gao. Chính vì thế tôi lại nhắc lại chuyện có bạn trên 1 thread ở box châu Á này nói về việc bạn ấy đi xe máy, giả vờ "phóng bay bay" qua các trạm kiểm soát trên lãnh thổ Tây Tạng là chuyện không tưởng.
Nothing lasts forever
Drepung
Rời Barkhor, chúng tôi đến tu viện Drepung, tu viện lớn nhất của toàn cõi Tạng, là nơi đào tạo các Lama hàng đầu, và các Dalai Lama.
Cái tên Drepung chắc không phải tên gốc, vì Drepung nghĩa là Đụn gạo, mô tả hình dáng của quần thể tu viện với hàng chục công trình màu trắng nằm trên sườn núi - chỉ có khi toàn bộ quần thể đã hoàn thành, phải cả trăm năm sau khi nó được thành lập. Không biết tên gốc của nơi này là gì nhỉ?
Được xây dựng cách đây 600 năm (năm 1614) bởi đồ đệ của Tsongkhapa (Tông Khách Ba đại sư), các thế hệ tu sĩ phái Gelugpa đã tiếp tục xây dựng và phát triển nơi đây thành trung tâm học thuật của tông phái và của cả Tibet. Thời cực thịnh tu viện thường xuyên có khoảng 7 nghìn tu sĩ, và lúc lớn nhất là hơn 10 nghìn. Dalai Lama thứ 3 - Dalai Lama chính thức đầu tiên là người đứng đầu nơi đây, và Dalai Lama từ thứ 2 đến 14 đều tu học từ nơi đây.
Đây là nơi đầu tiên tôi chính thức bước vào sâu trong một tự viện ở Tây Tạng. Dù đã đọc, xem nhiều về các hình ảnh Phật giáo Tây Tạng, nơi đây vẫn là nơi đầu tiên, và vì thế tôi sẽ nhớ rất rõ.
Một con đường đầy bóng nắng
Tsongkhapa đại sư
Drepung là cả một quần thể rộng, có nhiều đường lên xuống.
Chúng tôi đi theo con đường bên trái leo lên nhiều bậc thang. Bên sườn núi có một số tảng đá tự nhiên dựng thẳng, và trên tảng đá lớn nhất có bức họa vẽ hình Đại sư Tsongkhapa (Tông Khách Ba), nhà cải cách Phật giáo, Tổ sư của phái Gelugpa.
Nếu như phái Nyingmapa (Ninh Mã) tự hào là tông phái có truyền thống lâu đời nhất, phái Sakya đã từng nắm quyền cao nhất thời Nguyên và ảnh hưởng đến cả đế quốc Nguyên Mông, thì Gelugpa là phái cải cách và có vị Tổ sư là người Tạng gốc. Để phân biệt với ba phái trước đội mũ đỏ, Tông Khách Ba đã đội mũ vàng, và vì thế hình tượng Đại sư luôn có chiếc mũ vàng trùm đầu.
Hình tượng Tông Khách Ba đại sư nổi bật giữa trời xanh, hai bên có tranh hai đại đệ tử, là những người lập ra các tu viện Drepung, Sera, Ganden, Con chim thần Garuda, vật cưỡi của thần Visnu cũng được vẽ bên dưới. Con chim thần được coi là linh vật bảo hộ cho các vị Phật, vị thần và các Đại sư, các Bồ tát.
Đại thangka
Phía sau những tảng đá vẽ tranh Đại sư Tông Khách Ba này là khu vực thực hiện lễ treo Thangka trong lễ Shoton.
Hàng năm, vào lễ này một bức Thangka vĩ đại rộng hàng trăm mét vuông sẽ được trải ra trên sườn núi, trở thành một trong những nghi lễ đặc biệt và long trọng nhất ở Tây Tạng. Chúng tôi không đến vào lễ đó, nên tất nhiên không được chiêm ngưỡng những bức thangka khổng lồ này rồi.
Ảnh sưu tầm từ hãng tin Reuter: Lễ treo Thangka ở Drepung
Nội viện
Chúng tôi theo Tenzin bước vào trong khu vực nội viện. Mỗi gian phòng đều treo biển "Giá chụp ảnh 20 tệ" khiến tôi nản lòng. Kể ra nếu họ làm một mức phí chung cho toàn bộ tu viện thì tôi cũng có thể sẵn sàng trả, nhưng nếu cứ mỗi căn phòng đều 20 tệ thì thực ra là vô lý vì có nhiều phòng quá, và như vậy chỉ khuyến khích người ta chụp lén mà thôi.
Tìm trên mạng, những bức ảnh trong Drepung cũng có, nên một số ảnh bên trong sau đây là lấy từ mạng.
Điều ấn tượng đầu tiên là những ngọn đèn đốt bằng bơ yak (hay mỡ yak nhỉ - bác Nguyễn Tường Bách viết là mỡ trâu). Những ngọn lửa tượng trưng cho sự giác ngộ của Phật giáo, xóa tan bóng tối vô minh, tượng trưng sự kế tục lâu dài của Phật pháp. Ngọn lửa mang quá nhiều ý nghĩa, và vì thế luôn được thắp sáng trước các bàn thờ. Có những ngọn đèn nhỏ chỉ một ngọn bấc, nhưng có những cây đèn rất lớn đốt cả chục, thậm chí hàng chục ngọn bấc. Bơ yak trong tiết trời lạnh đóng cứng xung quanh, và chỉ chảy ra ở gần ngọn lửa. Những người Tạng cầm phích rót bơ lỏng vào đèn, hoặc xắn từng chút bơ đông cứng đắp vào quanh ngọn lửa một cách thành kính.
(Ảnh sưu tầm)
Drepung
Gian điện đầu tiên chúng tôi vào thăm ở giữa có một ngai dành cho các Tu viện trưởng của Drepung ngồi. Những người Tạng đến đây đều quỳ và áp trán vào bên dưới bệ tỏ lòng tôn kính và cầu phúc. Thuở ban đầu ở Drepung có hai vị lãnh đạo, một vị về sau trở thành Dalai Lama lãnh đạo tối cao Tibet, thì vị kia trở thành Tu viện trưởng Drepung, lãnh đạo toàn bộ tông phái Gelugpa.
Quanh tường gian điện này là rất nhiều các khám thờ nhỏ, với tượng của rất nhiều vị Lama cao cấp: Từ tượng Dalai Lama, tượng các Tu viện trưởng, các bậc tái sinh chuyển thế, Riponche. Tenzin chỉ cho chúng tôi thấy hai pho tượng của hai vị thầy đã dạy dỗ cho Dalai Lama 14 tại Drepung. Các Dalai Lama đều phải học tập tại đây.
Phía bên phải có pho tượng Quán Thế Âm đứng tuyệt đẹp, chúng tôi đứng mãi để ngắm pho tượng này.
(Ảnh sưu tầm)
Các cấp bậc tu của phái Gelugpa gồm:
1. Sadi hay là chú tiểu, vào tu viện khi còn bé
2. Dge slong là tỳ kheo, từ 20 tuổi thụ giới và chính thức được tính tuổi tu
3. Ghese, phải học đủ trình độ mới lãnh thụ danh hiệu này, có nơi nói tương đương Tiến sĩ Phật học, hoặc là Thượng tọa
4. Gyupa, bậc đã quán được Mật tông, rất cao cấp và rất khó đạt tới
5. Khenpo, các Đại sư đứng đầu các tu viện, phải do Dalai Lama ấn chứng
Một số trong bậc Gyupa trở lên có thể tái sinh chuyển thế, được gọi là Tulku.
Từ Lama đúng ra chỉ dành cho các vị rất cao cấp, tương đương Guru - đạo sư, được coi là hiện thân của Phật, chứ không như các tu sĩ khác. Tuy nhiên dùng với nghĩa rộng đã quen nên ngày nay nhiều người (không phải người Tibet) gọi tu sĩ là Lama hết.
Cung Ganden
Phía sau tòa điện là một sân nhỏ, thông sang một tòa nhà ba tầng. Những người Tạng đi đến đây bỗng tỏ vẻ thành kính hơn.
Chúng tôi đang đứng trước cung Ganden, nơi sinh hoạt và tu học của các Dalai Lama từ thứ 2 đến 14. Ganden là tên tiếng Tạng của tầng trời thứ 33, tầng trời cao nhất (trời Đâu Suất). Tòa nhà được Dalai Lama thứ 2 xây dựng và về sau các đời Dalai Lama đều phải về đây tu học để đạt đến trình độ Ghese và Gyupa. Tòa nhà khá khiêm tốn với cầu thang nhỏ và dốc, khác với cung Potala hoành tráng sau này. Dù nhỏ như vậy nhưng đây mới chính là nơi các vị lãnh đạo tối cao của Tây Tạng thâm nhập vào thế giới thâm sâu của Phật pháp để trở thành bậc "Trí tuệ như biển cả".
Tầng ba là nơi tu học của các Dalai Lama, chỉ những nơi dành cho Dalai Lama mới được căng vải vàng tươi như thế.
Trí tuệ lớn từ căn phòng nhỏ
Bức ảnh này chụp trong gian phòng học của các Dalai Lama. Phòng nhỏ và thấp, với bàn ghế có phần đơn sơ giản dị. Tôi tưởng tượng cảnh mỗi sáng mỗi chiều, hai vị đại sư già sẽ giảng dạy những triết lý thâm sâu của Phật cho một chú bé mà sau khi bước ra khỏi căn phòng này, các vị đại sư sẽ cúi chào chú và tôn vinh chú là bậc lãnh đạo tối cao của cái cõi tuyết cao nhất thế giới này. Dù bên ngoài cao trọng bao nhiêu, thì trong căn phòng này chú vẫn chỉ là một người học trò. Dù trong tiền kiếp chú đã tích lũy bao nhiêu kinh sách thì ở đây chú vẫn phải nhắc lại để mở lại những điều đang tiềm tàng trong A-lại-da thức.
Có thể nói căn phòng này là nơi đánh thức dậy những gì tiềm ẩn trong mỗi vị Dalai Lama, vì các vị chỉ là là tái sinh của muôn vàn kiếp trước. Nhưng nếu như không có sự đánh thức ấy thì đứa trẻ vẫn chỉ là đứa trẻ.
Tôi không biết Dalai Lama 14 đang lưu vong tại Ấn Độ kia sẽ nhớ gì về quê hương, nhưng chắc chắn lá sẽ có nhớ căn phòng nhỏ này, nơi mà trí tuệ dần được khai mở và đánh thức.
Ngai Ganden
Kế bên phòng học là phòng tiếp kiến các tu sĩ của Dalai Lama. Giữa phòng là một ngai ngồi phủ đầy vải trắng đang chờ đợi chủ nhân trở về. Bên trên là bức tượng Quán Thế Âm bồ tát nghìn mắt nghìn tay, mà người Tạng tin rằng Dalai Lama là hóa thân từ ngài. Những bức tranh tường có tuổi hơn 500 năm nhưng màu sắc vẫn tươi mới.
Căn phòng này cũng thật nhỏ nếu so với những căn phòng tại Potala, vì nó được dựng từ rất xưa, khi chủ nhân của nó vẫn còn chưa phải là người lãnh đạo cao nhất. Nhưng nó thật thiêng liêng vì gắn liền với những con người phi thường.
Bước ra phía sau những gian phòng nhỏ này, chúng tôi hít thở bầu không khí thoáng đãng bên ngoài, nhìn sang trùng điệp các tòa nhà của tu viện.
Luận pháp
Rời cung Ganden, về hướng Đại điện của Tu viện, chúng tôi khá ngạc nhiên vì được xem một buổi luận pháp của tu sĩ ở Drepung. Thường mọi người nói nhiều đến các cuộc luận pháp - đấu pháp (debate) ở tu viện Sera, chứ không phải ở Drepung.
Sau buổi chiều ở Sera, tôi nhận thấy buổi luận pháp ở Drepung có tính chất nghiêm trang hơn rất nhiều. Khoảng trăm tu sĩ trẻ ngồi hai bên lắng nghe, ở giữa là sáu tu sĩ đang thực hành luận pháp, trong đó năm người đứng nghe một tu sĩ lớn tuổi hơn truy vấn. Vẫn những động tác hoa chân múa tay, đánh tay chan chát, nhưng có vẻ nghiêm trang và có tính nghi lễ. Toàn bộ không gian xung quanh tập trung vào buổi luận, xen vào tiếng nói sang sảng của vị tu sĩ ở giữa và tiếng trả lời của năm người, thỉnh thoảng lại rộn lên những tiếng bình luận của những tu sĩ ngồi xung quanh
Hãy để ý nhìn lên trên nóc tòa đại điện: có một tu sĩ đánh cồng giữ nhịp. Lúc đầu rất lâu mới có một tiếng cồng, càng về sau tiếng cồng càng nhanh và buổi luận cũng gấp rút hơn. Và khi những hồi cồng dài vang lên thì buổi luận pháp kết thúc.
(Tenzin bảo: Toàn là philosophy, chả hiểu gì sất)
Last edited by Chitto; 04-12-2013 at 11:35.
Đại điện Drepung
Tòa đại điện của tu viện Drepung là tòa điện có gian phòng lớn nhất Tibet. Cả tòa nhà có 183 cây cột gỗ cao, và theo trên mạng thì lúc đông nhất có đến 8000 người đã đứng kín trong toàn bộ tòa nhà, gian phòng chính vào dịp lễ có 1500 tu sĩ làm lễ. Hai bên gian chính và phía trước là kho báu của Tibet, với vô vàn tranh thangka, các bức tượng cổ, các stupa bằng đồng, bạc, vàng, hàng nghìn cuốn kinh. Trong chính điện có tháp mộ của Dalai Lama thứ 2, 3, 4 được dát vàng nạm ngọc. Những chỗ này đều cấm chụp ảnh.
Còn có một thứ tôi rất thích, đó là những đài hoa rất đẹp được làm bằng bơ với màu sắc rực rỡ. Những đài hoa này được làm vào khi trời bắt đầu lạnh nên được giữ trong suốt mùa đông, và đến mùa ấm thì nó sẽ tan chảy, thể hiện sự vô thường của vạn pháp. Cái này cũng giống những mandala bằng cát sẽ được xóa bỏ đi sau khi kết thúc nhiệm vụ làm lễ.
Lúc này các vị sư sau buổi luận pháp đã vào ngồi trong điện, và rất nhiều vị khác từ nơi khác cũng đang lục tục kéo đến làm lễ. Một vị sư lớn tuổi đứng giữa điện đọc lớn những bản kinh văn, những người khác mở kinh đọc. Sau khi mấy đứa đi vòng hết các khám thờ trầm trồ thán phục các pho tượng tuyệt đẹp, quay ra thì đến giờ cúng trà, một số vị sư trẻ đi rót trà sữa vào bát của các vị khác, và họ vừa đọc kinh vừa uống trà.
Tenzin nói rằng hôm nay có một gia tộc ở Lhasa làm lễ cúng dường lên tu viện, và chúng tôi thấy những người trong gia tộc đó quỳ xuống giữa các hàng bục ngồi, dâng lên các vị sư mỗi người một gói nhỏ, trong tiếng đọc kinh lầm rầm lầm rầm. Không gian tràn trong ánh nắng rực rỡ xuyên qua cửa sổ ở mái nhà chiếu rọi một khoảng ở giữa, những dáng người di chuyển chậm chạp trong thanh âm trầm đục, vừa tĩnh lại vừa động.
Last edited by Chitto; 04-12-2013 at 11:34.
Đại điện Drepung
Ảnh sưu tầm trên mạng: Các tu sĩ trong đại điện Drepung
Bàn thờ rất được tôn kính: Phật Thích Ca ngồi với thế Chuyển pháp luân, bên trái là một stupa thờ, bên phải là tượng Quán Thế Âm nghìn tay, ngồi ngay dưới đó là tượng Dalai Lama thứ 3 đội mũ vàng.
Khác với truyền thống Phật giáo ở các nơi khác, tượng Phật ở Tibet hay được đội mũ miện trang trí rất nhiều châu ngọc. Phía trên là chim thần Garuda dang cánh bảo vệ.
Nếu so sánh với tượng thờ tu viện Nyingmapa thì tượng thờ Gelugpa phong phú và tập trung vào các vị Phật hơn. Nói thêm là nếu ở các nước Phật giáo khác, tượng Phật bao giờ cũng phải là cao nhất, chỉ các vị Phật mới được ngồi ngang với nhau; thì ở Tibet dễ thấy trên các điện thờ tượng Phật ngồi ngang với tượng các vị Đại sư, thậm chí nhiều nơi tượng Dalai Lama còn to và xếp trên tượng Phật. Đối với Tibet, tất cả các bậc hóa thân đều là đại diện của Phật, nên không khác gì nhau.
Maitreya Buddha
Pho tượng lớn nhất trong Drepung là tượng của Phật Di Lặc (Maitreya), vị phật Tương lai. Tương truyền pho tượng do chính Đại sư Tông Khách Ba thiết kế, nghĩa là đã 600 năm tuổi.
Pho tượng rất lớn nên dù đặt trong gian thờ ở tầng một, cũng khó mà nhìn thấy khuôn mặt của Phật, và phải lên tầng hai mới có thể nhìn rõ. Vì thế nên sau khi ở tầng một, chúng tôi lên tầng hai. Tại đây có gian thờ nhìn thẳng vào đức Phật của Tương lai.
(Ảnh sưu tầm).
Các bạn có nhận thấy điều gì không? Đó khuôn mặt Phật hơi nghiêng về một bên, nên trông rất sống động. Tôi có hỏi Tenzin rằng Phật nghiêng là do tạo tác như vậy hay do bị lún, bị nặng quá mà nghiêng thì Tenzin bảo do tạo ra như vậy. Tôi tin điều đó vì cái Stupa nhỏ trên búi tóc của Phật thì vẫn nằm thẳng. Stupa tượng trưng cho vũ trụ, cho tất cả trí tuệ, tri thức của Phật từ trong quá khứ, hiện tại chuyển đến tương lai.
Mind Buddha
Bên cạnh gian thờ nhìn vào tượng Phật Di Lặc, có một gian thờ nữa với một pho tượng bán thân, chỉ có nửa phần trên của Phật.
Tenzin nói đây là "Mind Buddha", vị Phật có thể nghe thấu tâm nguyện mọi người. Nếu bạn vào đây, không cần nói ra, chỉ cần suy nghĩ về một tâm nguyện; nếu tâm nguyện đó là lợi ích cho chúng sinh, không phải cầu xin cho mình, thì Phật sẽ thấu và sẽ linh ứng. Vì vậy trong gian thờ này không có tiếng đọc kinh, tiếng lầm rầm mà chỉ là lặng im.
Sau tìm hiểu thì tôi biết đây cũng là Phật Di Lặc, nhưng được đặt trong một niềm tin riêng biệt, và Phật Di Lặc ở đây đội mũ miện rực rỡ, với khuôn miệng cười rất khác so với pho Di Lặc bên cạnh.
(Ảnh sưu tầm)
Sau khi từ phòng ra, tôi nói với Tenzin: You có biết I cầu điều gì không? Free for Tibet and other countries that under Chinese hands.
Tenzin đưa ngón tay lên miệng, kéo tôi ra một bên và mỉm cười.
Sera monastery
Chúng tôi rời Drepung khi đã quá trưa, và sau bữa trưa chóng vánh cạnh khách sạn, là chuyển sang Sera ngay. Hành trình Drepung - Sera có vẻ khá truyền thống với những người mới đến Lhasa, nên tôi cũng không viết dài lắm nữa.
Chia tay những mái nhà của Drepung
Tới cánh cổng sặc sỡ của Sera
Tu viện Sera có hai đặc sản là Những bức Mandala bằng cát màu và buổi luận pháp ở vườn. Luận pháp thì đã gặp ở Drepung nên tôi chú ý so sánh phân biệt hai phong cách mà thôi.
Mandala cát thì xem nhưng tôi không chụp lại ảnh, hà, nhờ bạn Lymy cái nhỉ !
Re: Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Mandala cát vốn là điều tôi rất mê mẩn khi nói đến văn hoá Tạng. Hồi trước đã được xem clip, Dalai Lama chủ trì một lễ vẽ Mandala ở Dharamsala, đại lễ kéo dài cả tuần trời. Trước tiên họ dùng các dây bột trắng để vẽ nên xương sống của Mandala, vì Mandala thường có sự đối xứng kì lạ. Sau đó, các vị tu sĩ dùng cát mầu đặt trong một bút thả cát dài, họ cạo trên thân bút tạo ra những lực đẩy rất nhỏ khiến cho dòng cát li ti chảy ra khỏi miệng bút, từ từ hình thành nên những hoa văn nhỏ bé. Phải mất một tuần để họ tạo nên một bức Mandala cát như ở Sera mà chúng tôi nhìn thấy. Tất cả nghi lễ này đều diễn ra trong tiếng tụng niệm hoặc tiếng kèn Tạng, không khí vô cùng trang nghiêm.
Cấu trúc cân xứng của Mandala, một trong ba cách thể hiện Mandala của người Tạng.
Những gờ cát nổi lên, li ti
Phía góc của Mandala cũng vẫn được thực hiện rất cẩn thận
Mandala thể hiện năng lực Thiền định vô hạn, và với đa phần người chiêm ngưỡng, nó chứa đựng vẻ đẹp tự nhiên vô cùng thuần khiết và toàn vẹn. Cứ nghĩ đến việc Mandala đẹp nhường vậy sẽ bị phá huỷ, dù bằng một nghi lễ cũng thiêng liêng không kém nghi lễ hình thành ra nó, chắc ai đó cũng đều cảm thấy xót xa. Đạo Phật dậy về tính Vô Thường của vạn vật, rằng mọi thứ dù đẹp đẽ đến đâu rồi cũng trở về với cát bụi. Một người bạn phương Tây, khi anh ấy ở đó chưng kiến việc hình thành và phá huỷ Mandala, anh ấy xúc động vô cùng và nói: " Tôi chẳng thấy cái đẹp trong việc phá huỷ các Kiệt tác".
Tôi cũng thấy như vậy!
Re: Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Em cũng không hiểu gì về debating hall, chỉ thấy các vị sự có nhiều tư thế rất đẹp, nên góp vài kiểu ảnh nhé
Vườn Luận Pháp ở Sera
Này thì cãi!
Cậu bé này chắc cũng muốn Luận Pháp!
Đánh hội đồng nè!
Văn võ song toàn!
Đến muộn nè, có nên vào không?
Re: Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Chúng ta phê phán Trung Quốc bóp ngẹt Tây Tạng , nhưng nếu không có TQ thì TT có được hệ thống giao thông trong mơ như thế không ? Một dân tộc quá tin tưởng vào sự huyền diệu của tôn giáo như người Tạng thì sẽ làm kinh tế như thế nào đây ? Tôi luôn có cảm giác là TT như 1 cô thôn nữ chả biết đời là gì , thì sẽ không thể nào phát triển kinh tế được , thì làm gì có tiền xây dựng cơ sở hạ tầng, nhìn sang Nepal xem thì rõ, quá nghèo. Cho nên TT độc lập thì với điều kiện tự nhiên như thế cũng chỉ sống vào du lịch là chính, mà du lịch thì rất nhanh bị lai tạp và mất bản sắc , như Myanmar đó, vừa mở cửa là đã có nhũng nhiễu hành khách rồi, với vô vàn các Zone fee , khác xa Myanmar 4 năm trước tôi biết.Việc phát triển du lịch bền vững là điều rất rất khó . TT thuộc quyền kiểm soát của China cũng có mặt tốt là giúp TT phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng , những gì sai lầm của Cách mạng văn hóa thì giờ TQ đang khắc phục đó thôi , như bác chủ cũng nói có mấy dãy phố được xây lại mặt tiền theo phong cách Tạng đó. Như trong sách Huyền Chip hay đâu đó tôi có đọc rằng Palestine cứ đòi độc lập khỏi Irael nhưng kinh tế phụ thuộc 100% vào Israel và nhiều người Palestine cũng thừa nhận tách ra sẽ còn khổ hơn bây giờ nhiều. Tôi không hiểu biết nhiều , sai thì các bạn góp ý.
Tây Tạng mùa đông - về phía Đông Lhasa
Điều này tôi cũng viết ngay trong những bài đầu tiên của topic rồi mà. Thảo luận về vấn đề này thì e rằng sẽ rất rộng và có nhiều vấn đề. Tôi chỉ xin nói vài ý:
- Đúng là TQ đầu tư vào đây cực nhiều, điện, đường đều hoàn chỉnh đồng bộ. Nhưng nhìn lại thì người hưởng hệ thống đó chủ yếu là chính người Hán chứ không phải người Tạng. Chỉ trong vài chục năm, số lượng người Hán ở đây đã tăng vọt, lên đến gần 7 triệu. Người Tạng chỉ có 6 triệu, đã trở thành thiểu số trên chính quê hương họ. Có thể nói điện đường trước hết vươn tới và phục vụ những cộng đồng người Hán đang tràn ngập tại Tây Tạng. Người Hán đang chiếm dần các vùng phía Đông là đất thấp, màu mỡ, ấm áp, nhiều nguồn nước và tài nguyên.
- Kể cả không có nhiều người Hán di dân thì TQ vẫn phải đầu tư vào đây, để phục vụ lực lượng quân sự khổng lồ tại đây, ngày đêm kiểm soát vùng đất có vị trí địa chính trị to lớn này. Đây là nguồn của 4 con sông lớn nhất Châu Á, nguồn nước quan trọng nhất của toàn bộ Nam Á đông dân cư. Kiểm soát nguồn nước này là ảnh hưởng đến một nửa đất đai ASEAN, 1/3 đất đai Ấn Độ, và chính toàn bộ đất đai TQ. Cho nên lượng đầu tư hạ tầng là cho chính TQ, mà khách du lịch chúng ta chẳng qua được hưởng hương hoa từ nó mà thôi. Và người Tạng cũng thế.
- Người TQ có tu sửa bề mặt phố một vài phố lớn ở Lhasa, nhưng ngay đầu kia phố thì hàng loạt siêu thị, cửa hàng với bề mặt không khác gì Quảng Châu, Thành Đô với cờ hoa sặc sỡ, băng rôn treo từ trên xuống dưới. Những chính sách nhà cửa của TQ thì có thể nói là gian xảo để người Tạng dần không còn có thể sống ở Lhasa được nữa. Khi đến Bayi thì mới thấy cả một thành phố là TQ rồi, tìm thấy một quán trà Tạng là điều rất khó khăn.
- Người TQ bắt mọi nhà Tạng đều phải treo cờ TQ ở cao nhất, rõ nhất, trên cả cờ Phật. Nhà nào cũng phải treo ở cổng, nóc nhà, ngay cả chuồng bò nữa. Mọi ngôi đền chùa đều phải cắm cờ TQ cao nhất. Trong nhà thì nơi trang trọng nhất (tương đương với bàn thờ tổ tiên) là phải treo bức ảnh to có chân dung bốn vị : Mao - Đặng - Giang - Hồ và phải treo khăn trắng cầu phúc xung quanh. Trong các đền chùa cũng thế.
- Mang tiếng là khu Tự trị nhưng chính quyền gần như không có người Tạng, hoặc chỉ có người Tạng giả danh. Tiêu biểu là đồng chí Ban Thiền Lạt ma (Panchen Lama) thứ 11 do TQ dựng lên, sống hoàn toàn ở Bắc Kinh, cứ khi có lễ gì thì lại được máy bay đưa về làm rối một lúc rồi lại đưa về BK.
- Trên đây là vài ý thấy rõ ở bề mặt, còn những điều sâu hơn như giáo dục, truyền thông,... thì không rõ nên không dám nói.
Vài điều trên cho thấy có sự khác biệt với kiểu Anh cai trị Hongkong. Hay như Israel quản lý Palestine, tôi cũng đến Palestine rồi, trong đất Palestine không có sự hiện diện của người Israel, không có lính Israel (mật vụ thì chắc nhiều) và không phải treo cờ Israel - dù rằng tiêu tiền Israel.
Chúng tôi vẫn nói với nhau: Nếu không có TQ vào Tây Tạng, thì chắc là chúng tôi đã không được vào thăm Potala, không thể ngồi xe trên những chặng đường xa phẳng phiu thế này. Điều đó chúng tôi quá biết. Nhưng chúng tôi cũng nói rằng phải đi Tây Tạng nhanh trước khi lượng đầu tư của TQ đổ dồn lên nhiều nữa, vì khi đó các con đường phẳng phiu sẽ chỉ dẫn đến những thị trấn TQ, hoặc dấn đến những "Bảo tàng Tạng trong lòng TQ" mà thôi, mà Lhasa là một tiêu biểu.
Last edited by Chitto; 05-12-2013 at 10:57.
05-12-2013, 11:07
Sera
Thôi không bàn xa nữa, kẻo lại không viết xong nổi topic trong tháng này !!! Sau khi đi xong thì tha hồ bàn luận. Thực ra tôi còn muốn tiện đây sẽ viết về những điều mình biết về văn hóa, Phật giáo Tạng, nhưng để cuối chuyến đi nhé.
@ms.huong: đúng là bạn Tenzin, tôi không nhớ họ bạn í, nhưng khách VN bạn ấy dẫn nhiều rồi. Bạn ấy nhớ nhất đoàn năm ngoái 17 người với những 16 quý cô.
Tiếp tục vài hình ảnh về tu viện Sera.
Một ngõ nhỏ
Bức này chụp trong điện, nhưng bị nhòe, thành ra tôi lại thấy hay hay. Đại sư Tông Khách Ba ngồi trên điện, bên dưới là Dalai Lama thứ 3, tức là đệ tử 4 đời của ngài. Tự nhiên khuôn mặt của Đại sư nhòe sang lại như nhìn về hai chỗ...
Last edited by Chitto; 05-12-2013 at 12:01.
Luận pháp và Nghị trường
Luận pháp ở Sera thì mọi người viết nhiều quá rồi. Chỉ là so với Drepung buổi sáng, thì tôi nói đùa rằng Drepung là luận pháp kiểu sinh viên năm cuối, còn ở Sera là sinh viên năm đầu. Ở Sera chia thành nhóm nhỏ và luận ồn ào, hoa chân múa tay rất là vui vẻ, thậm chí như là trình diễn cho khách và người cúng dường xem. Còn luận pháp ở Drepung buổi sáng là tranh luận cho chính các sư xem, nên khác biệt khá rõ. Còn về nội dung thì chịu.
Bên ngoài cổng vườn luận pháp, Lymy nghe được đoạn này:
Tour guide: - Bà thấy các sư tranh luận thế nào?
Bà du khách Pháp: - Tao hiểu hết, chả có gì khó hiểu cả. Quốc hội nước tao cũng y như thế này mà !!
Re: Luận pháp và Nghị trường
Xem ra em toàn được nghe những thứ kì khôi. Bà du khách ấy bảo: Ôi trời. Quốc hội nước tao năm nào cũng diễn trò này, nói được ai hiểu chết liền. Hoá ra tao đi tới nửa vòng trái đất đến đây để nghe những điều ngày nào cũng diễn trên TV, ha ha!!!
Barkhor
Rời Sera, xe thả chúng tôi ở gần Barkhor, và ba đứa lại tiếp tục công cuộc khảo sát khu vực quanh quảng trường, với các ngõ phố mua bán đồ.
Barkhor buổi chiều nắng rực. Nhanh chóng... lạc nhau, nên tôi đi một vòng kora quanh Jokhang và đi xem các hàng quán. Các sạp lưu động bán đồ lưu niệm trước kia có rất nhiều quanh Barkhor giờ được gom vào một khu nhà to ở cách đó cả mấy trăm mét, chỉ còn những cửa hàng là nhà có gian hàng hẳn hoi, đồ đẹp hơn nhưng cũng đắt hơn. Nếu với những sạp nhỏ bạn có thể mặc cả xuống giá 1/3, thì với các cửa hàng việc mặc cả xuống 1/2 là rất khó, thậm chí nhiều chỗ không mặc cả được.
Cuối cùng tôi mua một chiếc chuông và một cây chử.
Chuông này gọi là chuông kim cương, vì có gắn ở tay cầm một biểu tượng năm mũi. Cây kim cương chử (chùy kim cương) là pháp khí đặc trưng của Kim cương thừa - Mật tông. Chử hai đầu, mỗi đầu có năm mũi, một mũi giữa và bốn mũi xung quanh tượng trưng cho Ngũ trí, Ngũ Phật, Ngũ nguyên. Chử khi cầm là để kiên cố chân tâm, định lại chính tâm mình; chử cũng là vật để hàng ma. Tôi nghe kĩ ba cái chuông và chọn chiếc này vì thấy âm thanh tốt nhất. Tiếng chuông để nhắc nhở, khai mở trí tuệ, Chử để đại định và từ bi. Sau này chiếc Chử tôi đã mang theo vào Potala và Jokhang, đặt lên các bàn thờ thiêng liêng nhất ở đó.
Hai pháp khí này trong Mật giáo thuộc loại rất mạnh, có thể nói là mạnh nhất, cho nên không nhiều người mua về.
Buổi tối
Trong đoàn chỉ có 3 chúng tôi chưa lên Lhasa nên mới hào hứng với Drepung, Sera, Barkhor đến thế; 4 người khác the Lhapka đi chợ, nơi vẽ tranh thangka và những điều thú vị khác nữa.
Bảy giờ tối, tôi về khách sạn rồi cùng mọi người đến nhà Lhapka ăn tối. Không biết các đoàn khác có được bạn mời như thế không, còn tôi rất vui. Nhà bạn nằm trong một khu tập thể cũ ở gần khách sạn, đi vòng vèo trong ngõ. Căn nhà nhỏ ấm cúng đón đám khách bởi những nụ cười thân thiện, bởi đứa trẻ lấp ló sau cửa, bởi những món ăn Tạng được nấu khéo léo và chắc là có phần điều chỉnh cho đám thực khách Việt Nam, bởi tôi thấy có rất nhiều rau !
Vào giữa bữa tối, mẹ của chủ nhà bước ra; bà cụ ngoài 70 tuổi, rất thân thiện và vui tính. Bà ra hiệu cho tất cả nâng ly, và một mình cụ đấu với tất cả, mọi người cười nghiêng ngả. Tôi không uống được nên phải dấu ly đi.
Tám rưỡi tối, chúng tôi ra về, lòng ấm áp với những gì đã trải qua.
Có một chút cay trong mắt: Giữa nhà Lhapka, trên vị trí cao nhất có treo một bức áp phích lớn được quàng khăn trắng chúc phúc với chân dung bốn người: Mao - Đặng - Giang - Hồ và dòng chữ đỏ chót: Khánh chúc 60 năm giải phóng Tây Tang. Ở đây mọi nhà, mọi ngôi đền chùa đều phải làm thế và luôn bị công an dò xét.
Trong khi mọi người về nghỉ, tôi đi bộ một mình ra quảng trường Potala, và về khách sạn khi đã 10 giờ tối. Vậy là hôm nay tôi lang thang gần như không nghỉ từ 8 giờ sáng đến lúc này.
Ngày mai sẽ lên đường. Tôi cũng đã viết quá dài với những ngày đầu này rồi.
Buổi tối
Chúng tôi đã vào không chỉ nhà này, một quán trà, một tu viện giữa núi xa, một gian điện thiêng liêng nơi bày hai bức thangka cổ nhất và quý giá nhất của Tibet, một cửa hàng tạp hóa ở nơi heo hút, đều có cả. TQ khó khăn trong in ấn lắm sao mà không in nổi vài triệu hoặc vài chục triệu cái (đính chính là dân Tạng có 6 triệu thôi, lấy đâu ra vài trăm triệu)?
Chính sách của TQ với Tibet thay đổi và siết chặt từng ngày cơ.
Từ năm 2008 đến giờ có khoảng 200 người Tạng tự thiêu, những điều đó có được công bố không, thế thì TQ ngán gì đâu mà không làm các xảo thuật của mình.
Tenzin nói với chúng tôi: Trước cửa điện thờ đều có các Guard (tức là tranh tường vẽ 4 vị Thiên vương), còn đây chính là 4 New Guards của người Tạng đấy ! Và từ đó trong cuộc nói chuyện, khi muốn nói về các nhân vật kia thì chúng tôi thường dùng từ "the new Guard" cả.
Vì khó chịu với cái áp phích có khắp nơi này, tôi cố tránh nó khi chụp ảnh, thành ra cũng không có. Tìm trên mạng chắc ra ngay thôi, nhưng chỉ thêm khó chịu, cũng chả khác gì cái cờ cao chót vót cắm trên nóc các tu viện, các căn nhà cả.
Last edited by Chitto; 05-12-2013 at 22:18.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét