Ngang qua một tòa nhà, được ghi là bảo tàng về quân sự. Lịch sử nó cũng dài dòng lắm, mà không nhớ được đâu.
Bên trong là sân vuông rộng, trong các phòng hiện tại toàn trưng bày các tranh thánh, tranh vẽ các nhà quý tộc cách đây ba trăm năm, và một số vũ khí cũ kĩ rỉ sét.
Con đường với các khối nhà phong cách thuộc địa càng ngày càng "trắng" hơn, đẹp hơn, đông đúc hơn.
Sucre - white city
Đây là cổng tượng trưng ngăn cách khu trung tâm với khu phố bên ngoài.
Bên phải là một nhà thờ, chúng tôi có vào thăm nhưng không có gì đặc biệt lắm.
Nhà thờ nằm bên ngoài khu trung tâm, nhìn từ trong ra. Bên trong đông đúc hơn, hàng quán nhiều hơn, với rất nhiều biển hàng thú vị.
Một con xe trắng ở khu phố trắng
Những biển hiệu gỗ thể hiện phong cách của chủ nhân
Với những ban công đặc trưng
Sucre - central square
Rồi cũng đến quảng trường trung tâm, là trái tim của thành phố. Mỗi tội xung quanh nhiều xe ô tô đậu quá, không buồn chụp.
Con phố này là một cạnh của quảng trường, quảng trường ở bên phải.
Chính giữa quảng trường là tượng của Antonio José de Sucre, tổng thống đầu tiên của Bolivia, và cũng là người được dùng tên đặt cho thành phố này.
Con cháu của người Inca xưa, với giấc mơ cưỡi sư tử một ngày mai
Sucre - central square
Tòa nhà bề thế nhất bên cạnh quảng trường là tòa nhà Chính phủ Bolivia, khi nơi đây còn là thủ đô của đất nứoc. Tòa nhà được dựng từ hơn một trăm năm trước, trông còn khá mới.
Ngày nay tòa nhà chỉ còn là tòa nhà Công quyền của vùng Chuquisaca, mà Sucre là thủ phủ. Công trình được xây dựng khi nền cộng hòa được thiết lập, nên còn gọi là kiến trúc cộng hòa, để phân biệt với kiến trúc thuộc địa trước đó.
Ngay bên cạnh tòa nhà công quyền, là công trình cổ quan trọng: Nhà thờ chính tòa Sucre (cũng là nhà thờ Tổng tòa của cả vùng). Tòa nhà này đựng từ những năm 1552, rồi tu sửa chỉnh trang mãi đến 1712 mới được coi là hoàn thiện. So với các nhà thờ vĩ đại ở châu Âu thì nó cũng khá bình thường. Nhưng chắc với dân số không đông đúc lắm thời đó, đây là công trình vĩ đại lắm rồi.
Cổng vào nhà thờ
Bên trong nhà thờ
Bàn thờ khá đơn giản và trang nhã, như hầu hết các nhà thờ ở Nam Mỹ mà chúng tôi gặp (trừ nhà thờ cổ nhất ở Rio)
Sucre - The House of Freedom
Tòa nhà quan trọng nhất cạnh quảng trường, cũng là địa điểm quan trọng nhất của lịch sử Bolivia cũng như Mỹ Latin là Tòa nhà Tự do - Casa de la Libertad - House of Liberty.
Được xây từ năm 1621, đây vốn là trường dòng của các tu sĩ dòng Tên (Jesuit), đứng gần nhà thờ chính tòa. Sau đó tòa nhà trở thành trường học dưới sự quản lý của nhà thờ.
Tại đây, năm 1825, trong một cuộc gặp các đại diện của các vùng đất Mỹ Latin, Simón Bolívar đã đưa ra bản Tuyên ngôn độc lập cho vùng đất mà sau này mang tên ông - Bolivia.
Tất nhiên câu chuyện Tự do và Độc lập không đơn giản vậy, những người da trắng đòi độc lập từ mẫu quốc Tây Ban Nha phải trải qua nhiều năm tranh đấu với các lực lượng hoàng gia từ Argentina, cũng như ngay trong nội bộ với nhau. Dù sao bản tuyên ngôn độc lập được coi là dấu mốc của sự ra đời cho quốc gia Bolivia ngày nay. Do đó tòa nhà trở thành di sản quan trọng nhất của quốc gia, và Sucre vẫn được coi là thủ đô Lập pháp.
Trong tòa nhà này giữ nhiều di vật của một thời giành độc lập: Bản sao của Tuyên ngôn độc lập, bản gốc của lá cờ Argentina đầu tiên, một phần lá cờ chung của các nước thuộc địa đòi độc lập, các vũ khí cổ, và rất nhiều các bức tranh vẽ về các vị lãnh đạo, các tướng lĩnh, anh hùng,..., cũng như di vật Kito giáo của một thời tu viện.
Chúng tôi đã mua vé để nghe giới thiệu về tòa nhà này. Và buổi chiều chậm rãi trôi qua với lịch sử của Bolivia, lịch sử các cuộc đấu tranh giành độc lập.
Căn phòng chính, vốn là nơi họp hội đồng nhà trường, trở thành nơi đọc Tuyên ngôn độc lập cho Bolivia. Bức tranh chính giữa là của Simón Boliviár. Xung quanh là những người anh hùng trong cuộc chiến giành độc lập. Đặc biệt có hai người bản địa cũng được vẽ tranh ở đây. Thực chất họ là những người ủng hộ giành độc lập cho một chính quyền mới của người da trắng, bớt khổ hơn, nhưng vẫn không có vị trí chính trị nào cho họ.
Bản tuyên ngôn độc lập
Một nữ anh hùng trong cuộc đấu tranh giành độc lập
Thanh kiếm lệnh, cũng không nhớ của ai nữa
Lúc đi chúng tôi có đi ngang qua một cái chợ. Theo dự định thì lúc về sẽ vào chợ mua đồ ăn, mang về nấu ăn tối.
Thế nhưng khi rời khỏi quảng trường là 5 giờ chiều, chẳng còn ai muốn lê chân đi nữa. Từ tối hôm qua đã vất vả ở sân bay, rồi cả ngày đi lại nên ai cũng mệt mỏi. Và thế là chui hết vào taxi đi về nhà nghỉ. Không một câu nhắn nhủ, chẳng buồn ỏ ê, ai nấy tự chui vào giường mình mà đánh một giấc say như chết.
Như tôi thì ngủ liền đến sáng hôm sau, gần như 12 tiếng liền không biết gì. Còn các bạn nữ thì nửa đêm có lục tục dậy đun nước nấu mì ăn.
Cái nhà nghỉ này tầng ba chỉ có mình hội này ở, phòng nam 3 người phòng nữ 5 người, bên ngoài là sảnh ăn và nấu, có bếp và bình đun nước sôi, chả có ai nên tha hồ tung hoành, thích làm gì thì làm.
Sáng hôm sau ai cũng mặt mũi dài ngoằng ra do ngủ nhiều. Bữa sáng đã được chuẩn bị ở tầng một, có cả hoa quả nữa, dù không nhiều nhưng cũng thật là thịnh soạn với đám du khách.
Sucre - La Recoleta
Sau bữa sáng ăn hai lần (lần 1 với mì gói nấu trên tầng ba và lần 2 do chủ nhà chuẩn bị), cả lũ lại lục tục gọi taxi đi đến La Recoleta, nơi được coi là ngắm thành phố đẹp nhất.
Đây là một đỉnh đồi phía Nam của thành phố, có một tu viện cổ dựng từ năm 1601, nay là bảo tàng. Tuy nhiên ngày mà chúng tôi đến chỉ mở cửa buổi chiều.
Trên đỉnh đồi là một sân rộng, cạnh đó có một trường học. Khi chúng tôi đến đúng vào đầu giờ học, học sinh từ các nơi chạy đến, vội vã trước khi đóng cổng trường. Sau đó còn gặp mấy cậu học sinh đi muộn rồi bùng học luôn, lang thang ở ngoài.
Vội vã cho kịp giờ
Sân rộng nhìn xuống thành phố
Từ đỉnh đồi, con đường đổ xuống khu phố bên dưới
Phía trước là đám học sinh đi học muộn nên bùng học luôn
Đi dạo bộ ở khu này rất thích, bình yên nhẹ nhàng, vắng người nên rất yên tĩnh. Có xe ô tô chạy qua, nhưng không nhiều, chỉ thoáng cái rồi đi. Nhớ đến khu phố cổ Hà Nội những năm xưa.
Trên đỉnh đồi là một tu viện cổ, giờ trở thành bảo tàng. Nhưng lúc đó bảo tàng không mở cửa.
Chính giữa quảng trường là đài phun nước nhỏ, giống như giữa House of Liberty.
Rời khỏi đỉnh đồi, chúng tôi lang thang xuống dưới
Buổi trưa 12h chuyến xe đi Uyuni sẽ khởi hành, ngay gần nhà nghỉ. Thời gian còn lại chưa biết đi đâu.
Cuối cùng đích đến đã có: Parque Cretacico
Parque Cretacico
Parque Cretacico là công viên cách trung tâm khoảng 6 - 7 km, được biết đến là nơi phát lộ dấu chân khủng long nhiều nhất thế giới.
Vào năm 1994, công ty khai thác đá làm xi măng ở khu vực này khi phá đá vô tình làm phát lộ một bề mặt đá có nhiều dấu vết lạ. Các nhà khoa học vào cuộc, và khi làm sạch toàn bộ bề mặt vỉa đá, họ kinh ngạc phát hiện ra đó là hơn 5000 vết chân của rất nhiều khủng long, được in vào đây từ 68 triệu năm trước.
68 triệu năm trước, nơi đây là một vùng đất bằng với nền đất sét mềm, có lẽ gần một nguồn nước. Do đó nhiều khủng long đã đi qua đây, để lại vết chân trên mặt đất sét. Rồi mặt đất sét nhanh chóng khô lại, hóa thạch sau hàng triệu năm, lưu lại các vết chân đó. Biến động địa chất nâng bề mặt nằm ngang trở lên dốc chéo, thành vỉa đá thẳng, để hàng chục triệu năm sau con người phát hiện ra.
Vỉa đá này 68 triệu năm trước là mặt đất sét nằm ngang, ghi lại dấu chân của 8 loài khủng long, gồm nhiều con to nhỏ đi ngang qua.
Khi chúng tôi đến đó vẫn còn hơi sớm, khu vực chưa mở cửa cho khách đến thăm, nên đành lang thang bên ngoài chụp ảnh.
10h sáng bảo tàng mới mở cửa, trong khi 12h là xe chúng tôi khởi hành ở bến xe, lại còn cần phải ăn trưa nữa chứ. Thế nên chúng tôi chỉ có 1 tiếng đồng hồ từ 10h đến 11h để thăm nơi này, thật quá ngắn cho một địa điểm đặc biệt. Tiếc rằng họ không mở cửa sớm hơn, phí phạm thời gian đến gần 1 giờ chờ ở bên ngoài. Lại không đủ thời gian để đến sát chân vách đá nổi tiếng kia.
Một giờ, chỉ đủ nghe giới thiệu thế này:
Đi dưới bụng mô hình con khủng long cổ dài ăn lá khổng lồ này
Ngắm nghía chú T-Rex - khủng long bạo chúa rất đẹp này
Trong bảo tàng còn nhiều nơi nữa, có cả khu vui chơi trẻ em, khu trưng bày hóa thạch các dấu chân, trứng khủng long,... nhưng chúng tôi không có đủ thời gian. Đành ngậm ngùi sớm rời khỏi nơi đây.
Bên ngoài hoa hoét tưng bừng luôn
Và bức ảnh chụp đủ cả đoàn, nhờ một anh chàng rất vui tính ở đó chụp hộ
Sucre
Quay trở lại trung tâm Sucre, chúng tôi chỉ còn 45 phút cho việc dọn đồ và ăn trưa, trước khi lên chuyến xe khách đi Uyuni.
Tính ra, chỉ ở thành phố này có hơn 24 giờ, nhưng kỉ niệm để lại dường như nhiều hơn thế. Khi chúng tôi đến là một buổi sáng nắng và lạnh, bên ngoài thì nắng hanh khô đến nứt da, mà trong bóng râm lại lành lạnh. Chỉ một ngày, mà có cả nắng và mưa, có cả lạnh và nóng.
Tôi nhớ là sau những ngày ở Rio, lúc đến đây, thấy cái sân rộng có nhiều dây phơi, lại có cả bồn giặt xi măng sạch sẽ, tất cả đều hào hứng lôi quần áo ra giặt và chăng đầy dây phơi, để hứng lấy mùi nắng hanh hao nơi đây. Tôi còn phải lấy dây của mình mang theo chăng thêm vài sợi dọc ngang để phơi cho đủ.
Thế rồi mệt mỏi với chặng đi buổi chiều, giấc ngủ sâu làm tất cả chẳng ai để ý nổi là giữa đêm có một cơn mưa to ập đến, và thế là đến sáng thì đám quần áo phơi ngoài trời đã thành đám giẻ sũng nước. Lại kì cụi vắt sạch và phơi lên, hi vọng không mưa nữa. Ban ngày không mưa nữa thật, nhưng nhiều mây, và thế là đám quần áo đó không khô hẳn được, may là không bốc mùi quá khó chịu.
Tôi nhớ đến cái ngân hàng nhỏ nơi tôi (là người giữ tiền góp của cả đoàn - cứ 2-3 ngày là thu một khoản chung) phải chui vào chui ra 2 lần để đổi tiền. Nơi ấy có anh chàng gác cửa to đùng cầm súng đứng canh, mà tôi không tiện chụp ảnh. Việc tính toán tỉ giá sao cho có lợi nhất cũng không dễ dàng.
Rồi cái quán ăn bản địa, nơi người dân hào hứng thấy lũ khách châu Á nói năng líu lo, gọi món này món kia rồi so sánh. À mà góc quán có nước sinh tố hoa quả khá ngon. Ở đây ngày nào chúng tôi cũng tính đến việc uống nước sinh tố cả, nhiều nhất là đu đủ, rồi dứa, ổi, xoài.... đều ngon cả.
Nhớ những đứa trẻ trên đồi trong sáng sớm, nhớ anh chàng vui tính ở bảo tàng, nhớ bà chủ nhà chậm chạp nhưng cẩn thận và tỉ mỉ hỏi han. Nhớ màu ngói đỏ, Sucre của một ngày tháng Hai...
Potosi
(21/2/2015) 12h30 chuyến xe khách chở chúng tôi khởi hành từ Sucre, đi về phía Tây Nam đến thị trấn Uyuni.
Đến 3h30, xe dừng nhanh ở thành phố Potosi, nơi đây cao hơn 4000 m so với mực nước biển. Từ đây chúng tôi thường xuyên ở trong khu vực cao trên dãy Andes, 4 đến 5 nghìn mét. Cũng may là di chuyển từ từ lên dần nên cũng quen dần, chứ nếu bay thẳng từ VN sang đây chắc cũng không ít người ngắc ngư.
Potosi từng là thành phố giàu có bậc nhất Nam Mỹ, nhưng chỉ là trong quá khứ. Giờ đây nó vẫn là thành phố di sản thế giới, nhưng đã mất đi rất nhiều sự giàu có ngày xưa
Xưa kia, dưới thời thực dân TBN, nơi đây có mỏ bạc lớn, và thành phố nhanh chóng phát triển nhờ vào nguồn tài nguyên quý giá đó. Bạc được khai thác rất nhiều với sức lao động của hàng ngàn nô lệ châu Phi, cũng như nhân công bản địa. Khai khác xong bạc được chuyển xuống bờ biển để lên tàu về mẫu quốc.
Đến những năm 1800, nhu cầu về bạc giảm mạnh, kéo theo việc khai thác suy tàn, thành phố cũng không còn giữ được sự huy hoàng của nó. Tuy vậy hiện nay nó vẫn là thủ phủ cả vùng Potosi.
Chúng tôi không đi vào thành phố, xe chỉ dừng ở ngoài rìa, nơi đây các ngôi nhà xây gạch đỏ không trát vữa nổi bật dưới trời xanh ngắt.
To Uyuni
Rời Potosi, xe chạy về phía Uyuni. Từ đây độ cao luôn trong khoảng 3500 - 4000 mét, tức là cũng tương đương các cung đường ở Tây Tạng.
Chỉ có điều ở đây xanh tốt hơn Tibet, nguồn nước dồi dào và đất đai màu mỡ hơn nên cây cỏ sinh sôi. Nhìn những đám mây trắng như những chú cừu khắp trời, khiến tôi nhớ đến Mongolia nửa năm trước, thảng hoặc là Tibet của thời xa hơn nữa.
Những triền đồi, xa xa là núi thênh thang
Một cô gái Quechua trên xe. Xe chạy không êm, nên chụp bị lệch nét. Rất muốn chụp được những gương mặt Nam Mỹ, mà lại ngại vì họ không thích bị chụp ảnh.
Xe lại qua một thị trấn nữa, với một biểu tượng của người công nhân
Thị trấn này trở đi bắt đầu thấy đá khô cứng hơn nhiều. Trên đỉnh đồi kia là một pho tượng Chúa màu trắng.
Chiều đang kéo đến từ từ, những đám mây trắng bông giờ chuyển sang màu sẫm cuối trời.
Trên mặt đất, màu xanh cây cỏ dần nhường một phần cho màu xám của đá sỏi, của khô cằn, của khắc nghiệt. Hay đúng hơn là giữa đá khô mà cây cỏ vẫn cố vươn lên để sinh sôi. Nhớ đến Hà Giang, những con đường xa uốn lượn giữa cao nguyên đá mà ta qua đã nhiều lần.
Đừng tưởng hoang mạc nghĩa là không có cỏ hoa...
Ngày đã hết, và chúng tôi đến Uyuni khi trời đã tối.
Những tia nắng cuối trong ngày đang hấp hối đằng xa
Uyuni town
8 giờ tối, chúng tôi đến thị trấn Uyuni, ở độ cao 3700m, cửa ngõ để vào đồng muối Uyuni.
Thị trấn nhỏ, đường phố thẳng tắp chia thành ô bàn cờ. Xưa kia đây là nơi giao thương từ vùng núi Andes xuống bờ biển Chile, ngày nay chủ yếu dành cho du lịch. Chúng tôi đến vào mùa chưa phải cao điểm, mà xem ra các hostel rẻ tiền cũng đã kín phòng. Cũng may là đã đặt dorm từ ở nhà, nên cứ tìm đến đúng địa chỉ thôi.
Có một chuyện xảy ra ở đây, từ đó mới thấy người ta cần giúp đỡ nhau như thế nào.
Số là chuyến xe từ Sucre đi Uyuni cũng đã đặt trước từ ở VN, thanh toán và confirm qua mạng trước rồi. Chính vì thế khi đi chúng tôi được phát những chiếc vé nhỏ riêng, không giống như người đi và mua vé tại chỗ. Có một quy tắc là khi xuống xe phải trả lại những cái vé đó cho lái xe, để lái xe thanh toán với chủ nhà xe lấy tiền. Thế nào đó mà một người đã đánh mất cái vé đó. Thế là khi đến Uyuni thì thiếu mất vé xe, và lái xe thì nhất quyết đòi vé, mà họ lại không nói tiếng Anh, nên cả hai rất khó giao tiếp.
Đúng lúc đó có một hành khách, một cô gái Chile đứng ra giúp chúng tôi, chuyển ngữ giữa tiếng Anh và tiếng TBN để nói chuyện với lái xe. Cuối cùng mọi chuyện được giải quyết khi lái xe gọi điện cho nhà xe cũng như những người liên quan, nhờ sự trợ giúp nhiệt tình và hiểu biết của cô gái đó. Khi đã xong hết việc, chúng tôi vô cùng cảm ơn cô gái, thì cô gái mới nói là đã từng làm việc tại Hà Nội. Thế rồi do trời đã tối và rất lạnh, chúng tôi tạm chia tay nhau. Cả đoàn tìm đến hostel đã đặt trước.
Ngang qua cái công viên nhỏ ngoài phố, chúng tôi thấy nhiều người mang túi ngủ ngủ ở đó, trời thì rất lạnh mà họ nằm lăn lóc ở đó. Rồi khá nhiều người lang thang tìm nhà nghỉ, mà chui vào các nơi rồi lại chui ra.
Đến nhà nghỉ đã đặt, thì chúng tôi lại có thừa chỗ. Số là trong đoàn lúc trước có 7 người, đã đặt 7 giường trong dorm, sau có June tham gia sau, đặt sau nhưng vì không còn giường nên buộc phải book hẳn một phòng. Đúng lúc này chúng tôi gặp lại cô gái Chile. Cô ấy cũng vào hostel đó, và khi chúng tôi hỏi thì cô ấy rất buồn nói rằng đã đi tìm khắp nơi, mà không đâu còn giường cả. Những người ngủ ngoài công viên kia hầu hết đều là không kiếm được chỗ ngủ.
Vậy là đến lúc chúng tôi cảm ơn cô gái, bằng cách mời cô ở lại với chúng tôi, trong phòng của June, vì nơi đó đủ chỗ ngủ cho 3 người. Không chí thế, một bạn đã đặt giường cũng xuống cùng phòng đó, nhường lại giường cho một du khách Nhật đi một mình cũng đang tìm phòng, tất nhiên có thanh toán tiền cho chúng tôi đúng giá. Còn cô gái Chile thì chúng tôi rất vui được mời cô nghỉ vì việc đã giúp chúng tôi hồi chiều.
Thế là từ việc đặt thừa một phòng, chúng tôi có cơ hội cảm ơn người bạn tình cờ, cũng như giúp thêm một người nữa trên chặng đường dài.
Sau bữa tối ở nhà hàng gần đó, chúng tôi không dám tắm vì lạnh và độ cao. Chỉ lấy nước nóng lau qua.
Sau 7 tiếng rưỡi trên xe, với những chặng đường ở độ cao gần 4000 mét, chúng tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ rất say, không buồn vẫy tai. Ngày mai sẽ là đồng muối trứ danh chào đón.
Day 9. Uyuni town
Buổi sáng ngày thứ 9 của hành trình là buổi sáng trong trẻo nhất từ đầu đến giờ.
Trời lạnh, không khí khô rang, tôi và hai bạn khác dậy sớm để đi tìm nhà tour đã đặt, làm việc cho tour ba ngày đi đồng muối và cực Nam của Bolivia.
Thị trấn Uyuni nho nhỏ với 10 nghìn dân, mấy chục khối cư dân hình vuông chia cắt bởi các con đường vuông góc 90 độ chằn chặn. Xưa kia bên cạnh là nơi giao thương, đây cũng là nơi sửa chữa các phương tiện giao thông, và hình ảnh người công nhân cũng được tôn vinh ngay ở con phố chính.
Buổi sáng thật nhẹ nhàng, và ba đứa chỉ biết lẳng lặng cảm nhận, không muốn làm khuấy động cái không gian êm ả này.
Dấu vết của đường sắt ngày xưa
Nhà tour mà chúng tôi đã đặt. Đúng như tên gọi, một màu đỏ rực.
Phố yên ả
Lại gần hơn anh chàng đang dang tay chào đón ở giữa phố kia nào
Một anh chàng nữa
Phố cứ vắng vậy thôi
Ở cái công viên nhỏ giữa phố, nơi tối qua có mấy du khách co ro nằm trong túi ngủ, sáng nay ngập nắng. Và có mấy anh chàng bán đồ lưu niệm, đủ thứ linh tinh.
Mấy chàng trong lúc chờ khách đều cặm cụi ngồi tết những chiếc vòng tay nhỏ bằng dây nylon. Họ tết khá đẹp, mỗi cái một màu sắc khác nhau, hoặc cách tết khác nhau, không cái nào giống cái nào. Ngồi vào bên cạnh xem họ làm, và mua mấy đồ lưu niệm nhỏ nhỏ, trong lúc chờ xe tour đến.
Trở về hostel, chúng tôi gửi hành lý vào locker, chỉ mang theo những thứ đủ cho 3 ngày dùng thôi. Trong chuyến đi này ai cũng mang theo dép, nhưng lại gửi dép vào locker, chỉ đi giày. Duy nhất tôi mang đôi dép lê theo. Các bạn khác không mang, và đó là một sai lầm mà tôi sẽ kể sau.
Train cemetery
11 giờ, xe khởi hành để bắt đầu chuyến đi. Chúng tôi có 8 người, cùng với 2 anh chàng Tây nữa ngồi trong 2 xe Landcruiser, mỗi xe 5 người. Đầy đủ nước uống và thức ăn cho mấy ngày, được bỏ trên nóc xe rồi phủ bạt lại.
Địa điểm tham quan gần thị trấn Uyuni nhất là nghĩa địa tàu hỏa.
Từ những năm 1890, Uyuni là điểm trung chuyển của nhiều thành phố, các mỏ khoáng sản, hàng hóa từ cao nguyên xuống vùng ven biển. Người ta đã có kế hoạch xây dựng một hệ thống đường sắt liên kết các thành phố và để vận chuyển khoáng sản. Những đoàn tàu hỏa được chuyển từ Anh sang chuẩn bị cho những hành trình trên dãy núi Andes.
Thế nhưng sự suy thoái của công nghiệp khai khoáng, những con đường giao thông khó khăn trên núi cao làm dự án đình trệ. Cho đến đầu thế kỷ 20 thì gần như không thể tiếp tục được nữa. Dù Bolivia có những lúc muốn khôi phục lại, nhưng tất cả đành bỏ dở. Ngày nay những đoàn tàu bỏ lại bên ngoài thị trấn Uyuni, mặc cho gió cát bào mòn. Lại do gần đồng muối Uyuni, nên muối cũng nhanh chóng ăn mòn các đoàn tàu.
Ngày nay, nơi đây trở thành điểm du lịch, với khung cảnh hoang tàn kì lạ, nhưng cũng có sự độc đáo lạ kì.
Colchani
Sau nghĩa địa tàu hỏa là một khu làng gần ngay cạnh đồng muối Uyuni, làng Colchani. Từ trăm năm nay, đây là nơi khai thác muối từ đồng muối và làm thành các sản phẩm khác nhau.
Giờ đây làng chủ yếu làm du lịch: bán các đồ lưu niệm và bán sản phẩm từ muối cho khách du lịch. Chúng tôi dừng lại đây khoảng một giờ, nghe giới thiệu và mua mấy món đồ rất xinh. Gói muối mua ở đây đến giờ vẫn để trong chạn, quên dùng luôn.
Bên trong làng
Những pho tượng này và cả tường nhà đều làm bằng muối
Đường sắt cũ, một thời chuyên chở muối đi các nơi
Salar de Uyuni
Làng Colchani đứng ngay bên rìa của đồng muối Uyuni rồi.
Đồng muối Uyuni là đồng muối lớn nhất thế giới, khoảng hơn 10 nghìn km2, mỗi chiều khoảng 100km. Đồng muối là mặt phẳng lớn nhất thế giới, được hình thành khoảng 40 nghìn năm trước, do sự khô đi của một hồ nước mặn vốn rộng hơn rất nhiều. Ngày nay, nơi muối dày nhất là hơn 10 mét, và đây là nơi có trữ lượng Littium đến 70% của thế giới.
Vì đồng muối rất phẳng và rộng, vào mùa mưa, nơi đây có một lớp nước mỏng, được gọi là tấm gương lớn nhất thế giới, và cũng là nơi du khách có thể tạo ra đủ dáng chụp ảnh với các kiểu kì lạ không nơi nào có được.
Ngoài rìa đồng muối, bên này là đất, bên kia phủ một lớp muối rồi
Một số xe dừng ở bên rìa để chụp ảnh, xe chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong luôn
Bên ngoài muối bị trộn lẫn đất do các xe lôi vào, nên nhìn bẩn bẩn
Mặt muối cứng và phẳng, xe chạy tốc độ rất nhanh, gần như vít ga thoải mái. Một con đường phẳng phiu bề rộng gần như vô hạn.
Đến khu vực muối khô và trắng tinh rồi. Cách xa chỗ cũ đến hàng chục km ấy, mây cũng xa tít thế kia cơ mà
Rồi đến chỗ có ngập nước xâm xấp
Salar de Uyuni
Xe dừng lại ở giữa nơi ngập nước, và trong khi hai lái xe bày đồ ăn ra thì chúng tôi lập tức nhảy xuống tác nghiệp.
Đến giờ mới thấy tác dụng của đôi dép tôi mang theo: Bên dưới lớp nước muối xâm xấp kia là những hòn muối to nhỏ lổn nhổn. Vì ngập nước nên không thể đi giày, mà đi đất thì đau lắm, các hòn muối tuy không làm đứt chân nhưng đâm vào chân rất khó chịu, đi lại phải nhon nhón khẽ khàng rất chậm.
Nói chung đôi dép của tôi bị mọi người trưng dụng khi cần đi ra xa, có lúc tôi cũng dùng. Lúc nhảy lên chụp ảnh mà rơi xuống không có dép, mới khổ sở làm sao.
Vậy nên sau này ai đi đồng muối Uyuni nên NHỚ MANG DÉP LÊ.
Nhảy nhót
Hai chiếc xe chở chúng tôi
Ảnh của một người bạn khác trong đoàn
Lá cờ Việt Nam
Cả đoàn
Sau bữa trưa, lại di chuyển sang khu vực khô của đồng muối
Nơi đây không có nước, muối kết tinh lại thành những hình loang lổ
Chú khủng long nhựa bé tẹo này đã trở thành khổng lồ thế này trên đồng muối
Và những kiểu tạo hình kinh điển trên đồng muối Uyuni
"Hoa muối" - với chú khủng long ngơ ngác ở góc
Một bức panorama đồng muối
Salar de Uyuni
Xe dừng lại tại địa điểm là một khách sạn cũ nằm giữa đồng muối, khách sạn Playa Blanca. Khách sạn này được xây cũng từ muối, giờ chỉ còn là nơi khách dừng chân để đi wc (mất tiền). Trong wc có cửa sổ nhìn ra, tôi gọi đùa là nơi đi tè mặn mà nhất thế giới.
Bên ngoài khách sạn cũ có một mô đất, nơi mà các du khách buộc cờ của nước mình vào đó. Chúng tôi mang lá cờ Việt Nam và một chiếc cần câu cũ, trước tiên cắm vào phía trước các lá cờ khác.
Sau đó buộc lên cao nhất, vì vốn có chiếc cần dài rồi
Đối diện khách sạn là một tượng đài cũng dựng bằng muối, ghi danh những ai, giờ tôi cũng không nhớ được nữa
Chiều, đồng muối lùi lại sau lưng. Chúng tôi đến nghỉ ở làng Atulcha buổi tối.
Trong tour này không có thời gian ngắm hoàng hôn trên đồng muối - vốn được coi là điểm nhấn. Những tour đi 1 ngày đi về từ Uyuni thì thường có thể ngắm hoàng hôn xong rồi về thị trấn. Còn chúng tôi phải di chuyển về phía Nam để cho những ngày tiếp theo.
Tối hôm đó ngủ lại nhà nghỉ giữa làng, ăn uống ngon lành do khá đói, lại có nước nóng để tắm nên cũng khá thoải mái. Đem hết những đồ gì chưa khô ra phơi cho sạch, vì trời lành lạnh và khô.
Ngày đầu tiên, tổng cộng di chuyển 250km.
Một dãy nhà ở rìa phía Nam của đồng muối
Trời xanh mây trắng của cao nguyên Potosi
Một cơn mưa đằng xa
Day 10
Buổi sáng ngày thứ 10 của hành trình
Ngọn đồi đối diện làng có hình thập giá đứng chơ vơ trên đám cây bụi màu xanh, dưới bầu trời xanh
Chúng tôi nhanh chóng ăn sáng rồi khởi hành. Thực ra hai bạn Tây trên xe đi cùng không được lịch sự lắm, trong lúc có các bạn nữ ngồi cùng xe, mà họ thản nhiên nói chuyện đi tìm gái bán hoa ở các nơi họ đến thế nào, rồi cười đùa vui vẻ, dù họ biết chúng tôi hiểu tiếng Anh cả. Ngoài ra cách thể hiện của họ có vẻ coi thường người châu Á, dù 1 bạn cũng là da đen.
Đến ngày thứ hai này thì không thích mấy bạn này, nghĩ cùng hai ngày nữa sẽ cũng có chút vấn đề đó.
Llama
Hành trình tiếp tục đi về phía Nam. Lúc này độ cao khoảng 4000 met, nên bên đường không còn cây to, chỉ có những cây bụi nhỏ.
Và gặp đàn llama đầu tiên từ đầu hành trình đến giờ. Những chú lạc đà không bướu của Nam Mỹ này rất dễ thương, và nhát người. Chụp được một tấm mà mất bao nhiêu công.
Thấy người là đàn llama đã bỏ chạy, nên chỉ có thể đứng xa xa, càng lại gần chúng càng chạy. Đoàn chúng tôi chia vòng cung, hai bạn "hi sinh" đi vòng để lùa đám llama về phía những người còn lại, những người đứng rất im để chúng không sợ. Đúng lúc đang chậm rãi xua chúng lại, thì một xe mới đoàn khác đến, và hai cô nàng từ trên xe lao xuống chạy tớn lên về phía đàn llama, khiến chúng bỏ chạy tán loạn. Thật chán quá đi mất.
Những con llama được đánh dấu bằng cách buộc vào tai những túm len màu rất xinh
To the South
Đi về phía Nam, đất cao nguyên trời trong xanh lồng lộng
Một đỉnh núi phủ mây
Foundation Rocks
Điểm dừng đầu tiên trong ngày là một bãi đá bên đường, với nhiều hình dạng do bị phong hóa.
Foundation Rocks
To the South
Rời khỏi Foundation Rock, xe tiếp tục chạy xuống phía Nam, đá núi rải rác bên những đỉnh núi phủ tuyết của dãy Andes
Desert
Từ đây chúng tôi bắt đầu đi vào vùng hoang mạc ở cao nguyên phía Đông dãy Andes, thuộc vùng Potosi. Hoang mạc nằm ở độ cao 4000m, cảnh sắc đẹp một cách khắc nghiệt và khác thường.
Hoang mạc này có tên là Siloli, và có một khu vực được gọi là hoang mạc Dali, vì nó giống như cảnh nền trong những bức tranh của danh họa người TBN này.
Đi giữa núi khô và hoang mạc
Siloli desert
Hoang mạc Siloli là cả một vùng rộng lớn phía Nam của Bolivia, nối thông sang hoang mạc Atacama của Chile, nhưng Atacama nổi tiếng hơn. Chính vì thế có nhiều tour đi thông từ Bolivia sang Chile qua ngả này, và du khách không quay lại Bolivia nữa. Chúng tôi sau tour này có hành trình đi lên phía Bắc, nên không theo con đường đó.
Cảm xúc khi đi trên hoang mạc Siloli thật khó diễn tả: cảnh sắc ở đây không đơn điệu tẻ nhạt như người ta thường nghĩ về các hoang mạc / sa mạc. Nó thay đổi theo các ngọn núi, theo các triền đồi, cung đường. Chỉ biết lặng ngắm và cảm nhận với tất cả tấm lòng của bạn, và tưởng tượng khung cảnh nào sắp diễn ra.
Đúng là cũng chỉ có Núi, có Đá, có Đất, có Cây bụi, nhưng sao lại khiến tôi cảm thấy thích thú và phong phú đa dạng hơn rất nhiều các cung đường đã từng đi qua. Có lẽ vì nó không lặp lại, mà chuyển từ sắc độ này sang sắc độ khác. Được biết sa mạc Atacama nổi tiếng vì cảnh đẹp và đặc biệt là mùa hoa, nhưng phong cảnh khác thì không hơn gì khu vực Siloli này.
Laguna
Laguna là hồ nước trong tiếng TBN. Trên cao nguyên này có những hồ nước cổ, hình thành từ xưa với nhiều khoáng chất và muối dưới hồ.
Một hồ nước rất đẹp bên đường
Xa kia có bốn chấm nhỏ di chuyển, lại gần thêm, và đó là những con hồng hạc
Bóng hồng hạc lò dò dưới núi
Và bóng người
Siloli lake
Hồ nước nhỏ rất đẹp, nhưng trời cũng lạnh quá, nếu đứng yên một chỗ là cóng hết cả tay.
Tiếp tục lên xe, chúng tôi di chuyển thêm một đoạn đường nữa, và dừng chân ở hồ Siloli, bên ngọn núi lửa đã tắt.
Bữa trưa ở đây tràn đầy nắng và gió và rét, và cảnh sắc lồng lộng của mây, trời, nước, núi non.
Ở bên hồ có những phế tích của một số nhà cửa xưa kia
Hồ Siloli mùa này ít nước, hông hạc cũng không về. Chỉ có những con chim nhỏ đậu trên mặt nước. Nước ở đây là nước mặn, không phải nước ngọt, vì lòng hồ chứa đầy muối từ khi đây còn là đáy biển.
Một chỗ ăn trưa quá thích luôn ấy. Giờ nhớ lại, lại mong được một lần ngồi đó, gặm đùi gà, thở ra khói, và nói cười nhẹ nhàng vì độ cao và mệt...
Dali desert
Danh họa Salvador Dali, bậc thầy hội họa trường phái siêu thực có một số bức tranh có bối cảnh nền các sa mạc chạy hút tầm mắt, với màu sắc nâu vàng. Trên nền sa mạc đó có những hình khối lạ lùng thể hiện những tư tưởng nghệ thuật mà hầu hết người xem không hiểu được ý đồ của tác giả !!!
Không biết liệu các sa mạc của Bolivia có chút liên quan nào đến các bức tranh của Dali không, nhưng nơi đây lại bỗng được gọi là sa mạc Salvador Dali
Tranh của Dali
Và cảnh của sa mạc Dali
Hoang mạc Dali tuyệt đẹp cứ trải dài ra trước mắt
Stone tree
Điểm nhấn của sa mạc Dali là "cây đá". Khối đá trải qua hàng vạn năm bị gió mưa phong hóa bào mòn tạo nên hình dáng kì lạ.
Dù có vẻ đã rất mất cân bằng, cái "cây" này vẫn đứng vững hàng ngàn năm qua. Chỉ là không biết với sự bào mòn của tự nhiên và đôi lúc có thể có cả sự tác động của con người, nó sẽ đứng bao nhiêu năm nữa?
Những khối đá bị phong hóa gần Stone tree
Eduardo Abaroa Andean National Reserve
Khu bảo tồn thiên nhiên Eduardo Abaroa Andean là nơi được du khách thăm đông nhất ở Bolivia, vì nơi đây có những cảnh sắc độc đáo bậc nhất.
Vào đây phải mua vé riêng, du khách tự trả tiền, không nằm trong tiền tour.
Nơi nối tiếng nhất của khu bảo tồn này là Hồ Đỏ (Red lagoon / Laguna Colorada)
Laguna Colorada
Giữa khu bảo tồn là hồ Đỏ nổi tiếng, nằm ở độ cao 4300m so với mực nước biển. Hồ rộng đến 60km vuông, chiều dài lên đến hơn 10km.
Hồ có màu đỏ là do sự bồi lắng trầm tích và loại tảo đỏ ở đây. Ở độ cao như vậy, nhưng do có nguồn nước nóng phun lên quanh hồ, nên nước hồ ấm áp, làm cho tảo đỏ càng sinh trưởng mạnh. Các sinh vật ăn tảo cũng phát triển mạnh trong hồ, cũng mang màu đỏ. Đến lượt nó, sinh vật phù du trở thành mồi của bầy hồng hạc.
Hồ có hai phần, phần nhỏ ít hồng hạc hơn, phần lớn hồng hạc tập trung chủ yếu.
Flamingo
Hồng hạc được nhiều người biết đến bởi bộ lông có màu đỏ đặc trưng, và thường đi thành bầy đông, tạo ra một khung cảnh màu sắc rực rỡ.
Hồ đỏ - Colorada là nơi giống hồng hạc James thường sinh sống. Mùa này chúng không ghép đôi, do đó chúng tôi không được chứng kiến những vũ điệu tỏ tình nổi tiếng của chúng. Nhưng được ngắm bầy hồng hạc ở khoảng cách gần thế này cũng thú vị rồi. Khi chúng tôi đến cũng không phải lúc bầy chim đông nhất, chỉ khoảng vài trăm con tản trên mặt nước hồ.
Hồng hạc ở đây không đỏ như trong Jurong park của Singapore, nhưng là sống trong tự nhiên, tha hồ bay lượn...
5000 m
Rời hồ Đỏ, xe tiếp tục chạy về phía Nam, và độ cao cũng lên dần theo.
Đến vùng cao nguyên 5000m, chúng tôi đi ngang qua nơi có những mạch nước ngầm và bùn nóng tỏa khói. Ở đây bùn sôi ở nhiệt độ 70 độ, đầy mùi Sunfua. Chỉ có vài người bước ra khỏi xe đi dạo một vòng, những người khác mệt vì độ cao và mùi khó chịu nên không ra ngoài.
Dali desert
Xe chạy ngang qua một vùng hồ với rất nhiều chim như le le. Đây là nơi buổi tối sẽ ngủ lại, còn hành trình thì vẫn tiếp tục xuống phía Nam.
Vì là điểm ngủ đêm nên có một số xe khác cũng ở đây, mà hầu hết đều sẽ đi sang Chile qua biên giới ở gần đó. Thật may mắn là hai anh chàng bất lịch sự trên xe chúng tôi đã chuyển sang đi Chile, nên xuống xe từ đây. Vậy là phần còn lại của tour chúng tôi sẽ không phải nghe những điều không muốn nghe nữa...
Sa mạc Dali với những màu sắc tuyệt đẹp trên các triền đồi núi...
Lúc này mọi người trên xe đều thấm mệt, nên ngủ gà gật. Được cái tôi vẫn tỉnh lắm. Mỗi tội máy ảnh có dấu hiệu hết pin. Ở độ cao và khí hậu lạnh, pin nhanh sụt hơn bình thường. Chỗ này độ cao khoảng 5000 m rồi đó.
Blue Lagoon
Điểm đến cuối cùng của hành trình về phía Nam đã hiện ra: đó là hồ Xanh (Blue Lagoon).
Về phía bên kia hồ là ngọn núi lửa, nơi là biên giới của ba nước: Bolivia - Chile - Argentina. Ngọn núi cao gần 6000m.
Lúc này tất cả đều mệt, nên chỉ đi dạo một chút mà thôi.
Vài ảnh nữa chụp ở đây
Double sun
Lâu quá mới tiếp topic này. Đã 2 năm với hai chuyến đi nữa xong rồi, mà bao giờ mới xong topic này đây?
Nhớ ngày rời hồ Xanh, chúng tôi đã được thấy hiện tượng "Hai mặt trời" rồi "Ba mặt trời", một hiện tượng thiên nhiên hiếm gặp.
Lake
Chiều hôm đó đường trở về khu nghỉ mệt nhoài. Hầu như mọi người đều ngủ gục vì chặng đường quá dài, đến hơn 400km trong ngày hôm đó, lại vượt qua những địa hình rất cao, cao nhất 5000m, không khí loãng và áp suất thấp.
Nhưng chặng đường về trong hoàng hôn mới thật đẹp làm sao. Tôi yêu Bolivia lắm ấy.
Hot spring
Buổi tối ngủ lại khu trại cạnh hồ là một trải nghiệm khó quên.
Chúng tôi nghỉ tại khu nhà chung với các bạn trong đoàn tour. Buổi tối ăn uống món do nhà tour nấu cũng khá OK. Nhưng điều thú vị nhất còn đang chờ phía trước.
Đó là khu nghỉ nằm ngay cạnh một nguồn nước nóng ! Nguồn suối nóng ở dộ cao 4300m, thật tuyệt vời. Tôi đã từng tắm suối nóng ở Tây Tạng giữa mùa đông, khi mà xung quanh tuyết trắng, ở độ cao 4500m, cao hơn đây một chút. Tuy không phải là cảnh mùa đông tuyêt trắng, nhưng cạnh hồ nước cũng rất đẹp.
Thế là buổi tối sau khi ăn xong, mọi người lục tục chuẩn bị, mặc đồ tắm, rồi đi ra chỗ ngâm. Suối nóng được ngăn lại thành một bể nước sâu đến bụng thôi, quanh xây bờ đá, có một khe cho nước chảy ra ngoài. Nguồn nước nóng từ dưới đất trào lên rất vừa vặn để tắm.
Thế là tất cả lội xuống ngâm người. Vì bể khá rộng nên có thể nằm trên mặt nước và bơi 1 - 2 sải tay, rất sướng. Tôi khoái nước nên bơi đi bơi lại suốt, còn các bạn chủ yếu ngồi bên bờ.
Các bạn Tây mang cả bia, snack ra nói chuyện rôm rả. Nhà tour còn chuẩn bị sẵn mấy chiếc cốc thủy tinh bên trong thắp nến, để tạo ánh sáng lung linh. Nằm ngửa trên mặt nước ngắm bầu trời sao, nước nóng làm tan đi cơn mệt mỏi.
Tuy nhiên cũng không thể ngâm quá lâu, chúng tôi về ngủ, trong khi các bạn khoai tây vẫn đang râm ran trò chuyện. Có người ngâm đến quá nửa đêm mới về.
Morning by the lake
Sáng hôm sau tôi dậy sớm, đi ra đón bình minh. Hồ nước nằm ngay phía Đông của khu nghỉ, nên mặt trời lên từ phía đó rực rỡ.
Ở độ cao lớn thế này không nên chạy nhảy nhiều, vì vậy chủ yếu tôi đi bộ, và trèo lên dãy núi phía sau để chụp toàn cảnh. Đẹp tuyệt vời, không bõ công dậy sớm chịu rét. À, buổi sáng trời rét phết đó.
Toàn cảnh khu hồ nhìn từ trên núi xuống
Mặt trời lên dần
Morning by the lake
Dưới kia là bể nước nóng mà chúng tôi đã ngâm tối qua. Nước vẫn bốc hơi nghi ngút, và chảy tràn ra hồ. Nhờ nguồn nước nóng này mà hồ luôn ấm áp, các sinh vật sinh sôi rất nhiều. Cũng vì thế ở hồ này cũng có hồng hạc bay về trú ngụ, nhưng khi chúng tôi ở đó thì không thấy con nào.
Lại xuống bể vầy nước, và một anh bạn Tây tắm từ sáng làm trò.
On the road
Khu nhà chúng tôi nghỉ đêm qua, lúc này vắng lặng. Chỉ còn hai chiếc xe chở đoàn chúng tôi. Các bạn Tây khác theo lịch trình sẽ đi đến biên giới và sang Chile, chính là con đường đến Green Lagoon mà chúng tôi đi chiều hôm trước. Chỉ có chúng tôi là quay trở lại Uyuni mà thôi.
Trời cao xanh trong vắt, nắng gắt, nhưng vẫn lạnh. Và đường về sẽ đi vào vùng hoang mạc Bolivia với cảnh sắc lạ lùng.
Đường về vòng theo hướng khác so với lúc đi. Chúng tôi băng qua những địa hình hoang mạc với vẻ đẹp lạ lùng, không thể mô tả lại bằng lời.
Xưa kia không biết những người Inca có đến tận nơi đây hay không? Xứ cao nguyên lạnh lẽo hoang vắng nhưng đẹp kì ảo này, màu sắc dường như biết đùa với người đi ngang.
On the road
Rồi đến một hồ nước nhỏ, nơi có vài chú hồng hạc
Llama
Đường bắt đầu đi xuống, dần rời khỏi cao nguyên
Và bên đường xuất hiện những chú Llama dễ thương hết sức. Phải chờ mãi những con vật đáng yêu này mới chịu ngoảnh mặt ra để chúng tôi chụp.
On the road
Đường lại đi trên những dải bình nguyên, và xa xa là những đỉnh cao của dãy Andes
Một khu nhà chơ vơ giữa bao la thiên nhiên
Dali Rock
Rồi xe dừng lại ở một bãi đá giữa bình nguyên.
Bãi đá mà trong tour gọi là Dali Rock (lại là Dali Rock, nhưng không phải bãi đá với cây đá ở ngày hôm trước) nổi lên như một đống đổ nát của các công trình xa xưa. Cái nằm cái đứng ngổn ngang và ngả nghiêng.
Tôi đã tìm hiểu trên mạng nhưng không thấy thông tin gì về bãi đá này. Ngay trên Google maps cũng không lần ra được con đường đã đi, không biết bãi đá này nằm ở chỗ nào nữa. Cả một vùng mênh mông của Boliviar trông đều như nhau.
Một tảng đá bị chẻ đôi một cách hoàn hảo
Đá ngổn ngang, và có thể trèo lên được
Từ đỉnh đống đá nhìn xuống
Đá và đá
Từ trong làng nhìn ra, phía trước là bốn ngọn núi, hai ngọn phủ tuyết. Bầu trời đầy mây và đang có mưa ở phía đó. Những cơn mưa mang nước tưới lên mảnh đất này, nhưng chắc không thể đủ cho vùng mênh mông khô cằn đến thế.
Quay lại ngôi làng, bầu trời phía bên này vẫn nắng chói chang. Cái nắng ở cao nguyên với độ cao 3000m, hanh khô như muốn nhắc rằng ngươi đang ở trên dãy núi dài nhất thế giới, chứ không phải ở một làng quê yên ả nào dưới đồng bằng đâu nhé.
Back to Uyuni
Buổi chiều, chúng tôi về lại thị trấn Uyuni.
Vậy là kết thúc ba ngày trên hoang mạc. Ngày đầu 250km, ngày sau 400km, ngày cuối 380km. Đi từ độ cao 3600m lên đến 4000 rồi 5000m, ngủ đêm ở 4300 rồi lại về 3600m.
Thị trấn Uyuni vuông vức yên bình lại đón chào nhúm người trở về. Chúng tôi vào lại Hostel và tắm rửa trong lúc chờ xe bus đi La Paz.
Cảm ơn người bạn đã chụp cho tôi tấm ảnh này. Một mình, mà thật tuyệt vời....
Day 11. Uyuni to La Paz
Ngày 11 của hành trình, chúng tôi về lại thị trấn Uyuni, để đón chuyến xe bus đi La Paz trong đêm.
Nghe lời những người từng đi chặng đường này nói rằng đi đêm lạnh, lại ở độ cao của Bolivia thì không nên chủ quan, nên chúng tôi đã đặt xe loại tốt nhất, khởi hành lúc 7h tối và đến nơi lúc 5h30 sáng.
Điều quan trọng nhất là trên xe có nhà vệ sinh, và có cả lò sưởi. Lò sưởi chạy dọc thành xe ở bên dưới, cao hơn sàn một chút, hơi nóng tỏa ra cũng vừa phải. Tôi ngồi sát thành xe có thể bỏ giày và đặt chân lên lò sưởi mà cũng chỉ hơi nóng nóng, nhưng đủ làm cho trong xe ấm áp.
Rời Uyuni, xe chạy lên hướng Bắc, đến thủ đô La Paz, thủ đô cao nhất thế giới.
Sơ lược lịch sử
Suốt từ đầu đến giờ chúng tôi đi trong vùng đất mang toàn dấu ấn là xứ thuộc địa của Tây Ban Nha. Dù gặp nhiều người bản địa Quechua (họ phát âm như là Kê-chùa) nhưng các thành phố đều chỉ có dấu tích của người TBN.
Ngược lên phía Bắc, sắp tới chúng tôi mới gặp được dấu tích của những nền văn minh cổ xưa, trước khi người châu Âu đến.
Các nền văn minh gọi là Tiền Columbo này đã có từ rất lâu trước đó, nhưng rât tiếc là họ không có chữ viết, nên người ta không biết gì nhiều về họ. Tên của các nền văn minh trước Inca cũng chỉ do thời sau đặt cho, chứ không ai biết chính họ gọi họ thế nào, họ đã từng có thủ lĩnh là ai. Những gì ta biết về họ quá ít, chỉ qua các di chỉ còn lại trên mặt đất và trong lòng đất.
Vùng đất Nam Mỹ có người sinh sống từ hàng chục nghìn năm trước. Khoảng 20000 năm trước châu Mỹ nối với châu Á ở phía Bắc (Alaska - Bering-Nga) và người châu Á đã di cư sang đây. Từ những tộc tiền sử, họ dần đi xuống phía Nam ấm áp hơn, định cư tại khắp các vùng đất thấp, và rồi lên dần trên các cao nguyên.
Với khu vực dãy Andes, các nền văn minh xuất hiện rồi tàn lụi. Họ xuất hiện và tàn lụi thế nào, không có gì rõ ràng, vì không còn thư tịch gì, không còn truyền miệng nữa. Họ từng đến, và đi như muôn vàn cây cối....
Theo các thông tin trên mạng, thì có các nền văn minh ở vùng Andes này như sau (các tên gọi thường là tên địa điểm mà khảo cổ tìm thấy di tích của họ)
- Chavín (900 - 200 TCN) Dọc bờ biển phía Tây Andes, trên lãnh thổ Peru hiện nay
- Moche (100 - 700) Bờ biển phía Bắc của Peru
- Tinawaku (300 - 1100 hoặc lâu hơn trước đó) Peru, Boliviar, Chile
Cuối cùng là đế chế Inca (1430 - 1533), bị tiêu diệt bởi Tây Ban Nha.
La Paz
Thủ đô La Paz của Boliviar là một trong các thủ đô đặc biệt nhất trên thế giới, và tôi ấn tượng về nó có lẽ cũng là nhất trong số các thủ đô đã đến.
La Paz là thủ đô cao nhất trên thế giới nếu tính ở vị trí trung tâm. Tại sao lại phải tính ở vị trí trung tâm? Vì đây cũng là thành phố có chênh lệch độ cao nhiều nhất trên thế giới. Trung tâm thành phố nằm ở độ cao 3650m, trong khi đó điểm cao nhất ở vị trí hơn 4000m, mà điểm thấp nhất thì lại ở chỗ 3250m. Nghĩa là chênh lệch cao độ của thành phố lên đến gần 800m ! Một khoảng cách đáng sợ.
La Paz nghĩa là Hòa bình, một cái tên TBN, và thành phố cũng do người TBN thành lập.
Nơi đây là một thung lũng giữa hai dải bình nguyên. Hãy hình dung một bình nguyên có độ cao hơn 4000m bị khoét trũng xuống về phía Nam, hai bờ dốc chéo lên, thì La Paz cũ nằm ở giữa thung lũng đó. Sau vì người đông dần nên các tòa nhà phải vươn ra khắp các phía: vươn lên bình nguyên trên cao, men theo thung lũng xuống thấp, tỏa ra khắp nơi. Chính vì thế mới tạo ra độ chênh cao đến như vậy.
Người Inca xưa giao thương qua khu vực này, nhưng chưa tạo thành một đô thị. Người TBN đến đây, thấy vị trí thuận tiện cho giao thương, lại nằm dưới thung lũng tránh được không khí quá lạnh, nên đã đặt nền móng của thành phố vào năm 1548, với tên gọi thành phố Đức Mẹ Hòa Bình (Nuestra Señora de La Paz). Từ đó cái tên La Paz được ra đời.
Ngày nay, khu trung tâm ở độ cao 3650m là khu phố cổ. Thấp hơn một chút là khu phố của người giàu có. Cao hơn hoặc thấp hơn nữa là những người nghèo hơn. Càng lên cao càng nghèo. Nhưng nếu vượt hẳn lên bình nguyên 4000m lại là khu phố mới, của giới trung lưu. Khu thấp hẳn xuống 3250m lại là của người nghèo. Một sự đan xen phân chia lạ lùng.
La Paz
Chuyến xe đêm đưa chúng tôi đến La Paz vào lúc 5h30 sáng, khi trời còn mờ tối. Tiếp theo đó chuyến taxi đưa đến nơi nghỉ, nằm ở ranh giới giữa khu phố giàu có và khu phố cũ, lại cũng gần khu phố nghèo.
Nhà nghỉ rất phong cách, do hai bố con người Canada quản lý. Người con trai đến La Paz lấy vợ nơi đây, còn người cha từng đi khắp nơi trên thế giới, từng đến cả Việt Nam rồi, nay về giúp con trai quản lý khách sạn.
Phòng ăn của khách sạn
Khách sạn này có một sân thượng khá cao, từ đó có thể nhìn ra xung quanh. Và đây là một cảnh nhìn từ đó:
Có thể thấy thành phố leo dần lên cao trên núi. Chúng tôi lúc đầu nghĩ lên đến đó là hết, sau mới biết là nhầm: vượt qua vách núi kia, thành phố tiếp tục trải rộng ra nữa.
Trong khi mọi người nghỉ ngơi một chút sau chuyến xe đêm dài thì tôi đi dạo quanh khu khách sạn.
Là thành phố có độ chênh lớn nhất thế giới, khắp nơi ở đây là các con dốc ! Các loại xe ở đây chắc cũng phải có hệ thống phanh và bộ máy/số tốt nhất thế giới mất, đường lúc nào cũng dốc thế này mà:
Những người phụ nữ Quechua to đùng, đặc biệt hông rất lớn, và di chuyển không nhanh lắm. Tuy vậy trông họ rất khỏe mạnh đầy sức sống chứ không như các bà Tây béo ị
Một khu chợ bán đồ ăn bình dân, nhưng sớm quá chưa mở cửa. Khu này bán buổi trưa
Lại một góc khác của thành phố cheo leo
Rồi tôi thấy băng ngang trên đầu là một đường cáp treo. Trong lòng thắc mắc không biết nó dấn đến điểm du lịch nào mà có cáp treo. Một số thông tin du lịch và bản đồ cũ trên mạng không nói đến cáp treo này, không hiểu nó dẫn đi đâu.
Sau mới biết đây là hệ thống giao thông công cộng của thành phố: điều mà tôi thấy thú vị nhất về La Paz.
Để ý thì bên trái ảnh có mỏm đá xám hình thù là lạ, bên đó là Moon Valley - khu địa chất có địa hình kì lạ giống như trên Mặt Trăng.
Chúng tôi rời khách sạn, có hỏi về chỗ ăn uống. Ông quản lý có giới thiệu một cửa hàng bán đồ ăn Việt Nam, chúng tôi rất háo hức để tìm đến cửa hàng đó.
Từ khách sạn ra trung tâm, đi ngang qua mấy con phố, đến trục phố chính thì chúng tôi bắt xe taxi cho tiện, đi lại cũng rẻ, vì có 8 người nên 2 xe taxi vừa đẹp.
Góc phố bày hàng hóa, cũng như ở nhà mình thôi
Đa số người Bolivia theo Công giáo. Các nữ du dòng Francisco (Phanxico - Việt hóa gọi là dòng Phan Sinh) trên phố. Dòng này đặc trưng bởi màu áo nâu và thắt lưng bởi sợi dây thừng có buộc nút.
San Francisco Square
Quàng trường San Francisco là quảng trường cổ nhất ở La Paz, được gọi theo tên của nhà thờ cổ nhất, dựng ngay bên cạnh.
Ngay sau khi xây dựng thành phố La Paz, người TBN đã xây nhà thờ cạnh con sông chảy chính giữa thung lũng (sông Choqueyapu). Dần dần con sông bị lấp đi, không còn dấu vết.
Nhà thờ đầu tiên được xây dựng trong hơn 30 năm, khoảng năm 1580 mới xong. Nhưng rồi chỉ 20 năm sau nhà thờ này bị sập trong một trận tuyết lớn, điều hiếm xảy ra ở đây.
Đến năm 1743, nghĩa là chờ đến hơn 140 năm sau, người ta mới xây lại nhà thờ, nhưng cũng chia làm nhiều giai đoạn. Những phần cuối cùng hoàn thành vào tận những năm 1885, nghĩa là mất đến 140 năm nữa.
Ngày nay nhà thờ được nâng lên thành Vương cung thánh đường (cấp bậc cao nhất cho nhà thờ Công giáo không nằm ở Rome). Tuy nhiên đây lại không phải là nhà thờ Chính tòa. Nhà thờ này hiện nay còn là bảo tàng và lưu giữ rất nhiều tác phẩm nghệ thuật vô giá, vì vậy vào nhà thờ thì tự do nhưng đi lên tháp chuông hoặc khu nhà phía trong thì phải mua vé.
Bên ngoài nhà thờ
Bên trong nhà thờ
Những phần bằng gỗ ở đây được trạm trổ rất tinh xảo, và mạ vàng rực rỡ. Cái bục giảng bên phải quả là một công trình điêu khắc tỉ mỉ tinh tế.
Ngày xưa bục giảng kinh được đặt ở giữa nhà thờ, và cao hơn đầu mọi người để người giảng kinh có thể nói cho tất cả mọi người cùng nghe thấy. Giọng của các giáo sĩ cũng phải được luyện để vang khắp nhà thờ. Ngày nay với hệ thống loa, điều này không cần thiết nữa, và bục giảng kinh được đưa lên phía bàn thờ ở đầu nhà thờ. Những nhà thờ cổ vẫn còn cái bục giảng cũ này, nhưng không sử dụng đến.
Phia sau nhà thờ là tu viện, nơi ngày trước các giáo sĩ, tu sĩ sống. Ngày nay nơi đây là viện bảo tàng trưng bày các bức tranh cổ. Hầu hết tất cả các bức tranh ở đây đều là chủ đề tôn giáo: Đức Mẹ, Chúa, các Thánh,... Dù các bức tranh có tuổi hàng trăm năm nhưng tôi thấy cũng không đặc sắc lắm nên không chụp lại.
Hành lang quanh một sân trời bên cạnh nhà thờ
Vườn cây nhỏ yên tĩnh trong nắng sáng cao nguyên
Leo lên tháp chuông cổ, và ngắm nhìn những mái ngói theo kiến trúc thuộc địa TBN
Mái vòm chính giữa của nhà thờ được ghép bằng đá, chen giữa các mái nhà mới của thành phố
Từ trên tháp chuông nhìn xuống quảng trường và về phía các ngôi nhà bám núi leo lên phía xa xa
La Paz
Bên ngoài quảng trường là cuộc sống xoay vòng của những người Quechua bản địa, những người là con cháu của thực dân TBN xưa, và cả các thế hệ lai giữa họ.
Đa sắc tộc, đa văn hóa, hòa trộn, và ai cũng kiếm tìm hạnh phúc
La Paz
Rời nhà thờ, chúng tôi lang thang trong khu phố cũ. Đây là trung tâm của La Paz cũ thuở xưa. Những con đường rất dốc bám theo các triền núi. Dường cứ liên tục lên xuống thế đó
Và những người nghèo trên phố
Người đàn ông này đi một đôi giày kỳ lạ, bó bởi rất nhiều các mảnh vải, nylon. Không hiểu được do nguyên nhân gì?
Witches' market
Một nơi ở La Paz mà người ta nói đến nhiều, là Chợ Phù thủy (Witches' market - El Mercado de las Brujas).
Cái tên này khiến tôi liên tưởng đến thời Trung cổ, khi tòa án dị giáo Tây Ban Nha lê máy chém khắp châu Âu và châu Mỹ, đem lên dàn hỏa thiêu những người phụ nữ bị kêt tội là phù thủy. Mà những "phù thủy" thời đó rất có thể chỉ là bà thầy lang, bà đỡ đẻ, người sinh ra đứa con bị dị tật, người phụ nữ gặp ác mộng la hét trong đêm, hoặc đơn giản hơn chỉ là hàng xóm tố cáo... Lần đầu tiên nghe tên chợ Phù thủy tôi từng nghĩ rằng có thể đó là khu chợ nơi người ta hỏa thiêu các phù thủy.
May quá không phải vậy. Chợ phù thủy không phải là một khu chợ tập trung mà là các con phố buôn bán, kiểu khu phố cổ Hà Nội, nhưng bé bé. Trong chợ này đa số bày bán các loại hàng phục vụ cho tín ngưỡng bản địa: Những loại gỗ thơm, hương liệu, bột màu, bột hương, các tượng gỗ để làm lễ, côn trùng khô, ếch khô,.... Nghĩa là những thứ mà với người phương Tây thì rất lạ lùng kì quái, khiến họ liên tưởng đến các phù thủy với ma thuật nào đó. Còn đối với người bản địa thì nó rất đơn giản là thứ hàng ngày sử dụng trong cầu cúng.
Đống gỗ bên dưới kia có mùi rất thơm. Tôi có lấy một mẩu bằng hai ngón tay đem về, đến nay sau hơn 2 năm vẫn còn mùi thơm.
Và có lẽ là thứ trông kinh khủng nhất ở chợ là những xác llama con ép khô.
Người Quechua rất quý llama, loại lạc đà không bướu cho họ thịt, len, sức chuyên chở. Họ còn cho nó là loại vật thiêng liêng và dùng để dâng cúng thần linh, mà cụ thể là thần Đất Mẹ Pachamama. Vì thế trong các nghi lễ lớn họ hiến tế llama, và khi động thổ xây nhà, khai trường... cũng dùng xác llama con chôn xuống để dâng Đất Mẹ. Xác llama treo trước cửa là vật may mắn chống lại ma quỷ, vì llama được hiến cho thần linh rồi cũng trở nên linh thiêng.
Một góc thành phố
Một chàng trai cặm cụi với công việc của mình
Cuộc sống bình thường
Chúng tôi đi ngang qua Tượng đài Chiến sĩ vô danh, tưởng niệm những người lính đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh. Tuy nhiên pho tượng này lại còn có tên gọi là "người say" (Drunken).
Một thế hệ người Bolivia mới
La Paz: quán phở
Lúc sáng chúng tôi được giới thiệu quán ăn Việt ở trên phố, nhưng lúc đi thì quán chưa mở cửa.
Chiều chúng tôi lại quay lại, và lần này quán đã mở. Quán ghi Vinapho. Khi chúng tôi vào thì cô bé phục vụ giao tiếp khá khó vì không biết tiếng Anh, chỉ có tiếng TBN. Có menu, ngoài phở còn có một số món khác, nhưng hơi thiên về đồ Tàu nhiều hơn.
Một lúc sau chủ quán đến: một anh chàng người Bolivia, nhưng có giao tiếp được một chút tiếng Anh. Anh kể rằng trước kia quán này của mấy người Việt mở ra, và ở La Paz có khoảng 40 người Việt làm việc. Nhưng sau đó họ đã nhượng lại quán cho anh, ngoài món phở thì anh có điều chỉnh một số món nữa. Anh từng đến Việt Nam, và yêu thích Việt Nam. Trên màn hình giữa quán chiếu đi chiếu lại một đoạn phim ngắn với các hình ảnh ở Việt Nam, tuy nhiên đan xen cả hình ảnh của TQ.
Trong quán cũng treo một số bức ảnh cảnh Việt Nam. Chúng tôi hỏi bánh phở lấy ở đâu thì anh nói ở gần đây có một người Việt làm bánh phở, và vài ngày anh lấy một lần, bảo quản lạnh.
Anh chủ quán và đám khách Việt từ phương xa.
La Paz
Ăn no xong, chúng tôi lê bước về khách sạn nghỉ một lúc. Giấc ngủ lúc này thật ngon.
Nhiều người nói về việc chịu ảnh hưởng độ cao của La Paz. Các trận bóng tổ chức ở La Paz luôn đem lại chiến thắng cho đội chủ nhà, chủ yếu vì đội khách không chịu nổi không khí loãng và độ cao nơi đây, nhiều cầu thủ nước ngoài phải ra sân bằng cáng với lỗ mũi chảy máu.
Tuy nhên chúng tôi đã loanh quanh trên độ cao 3000 - 4000m cả tuần nay rồi nên vẫn rât thoải mái. Chỉ là đi bộ nhiều lại nắng to nên cũng mệt, giấc ngủ rất say.
Từ tầng thượng của khách sạn
Cable system
Sau khi nghỉ một giấc buổi chiều, mấy đứa khỏe chân tiếp tục đi chơi quanh khu khách sạn, và hướng đến cái cáp treo đang treo lơ lửng ở đằng kia. Một số người mệt nên ở nhà.
Đi một lúc thì đến ga cáp treo, thấy người đến đó không có vẻ gì là dân du lịch cả. Đến nơi mới biết rằng đây là hệ thống cáp treo giao thông công cộng, có giá rất rẻ. Thế là 4 đứa nhảy lên ngay, bất kể đi đâu cũng được. Giữa thành phố mà có cáp treo để ngắm cảnh từ trên cao thì tuyệt quá rồi còn gì nữa.
Ga cáp treo của tuyến màu vàng. Sau mới biết đây chỉ là một ga trung gian, nằm giữa tuyến màu vàng này.
Thành phố La Paz nhìn từ trên cáp treo
La Paz from cable
Phía kia là Moon Valley, nơi có địa chất trông giống như kiểu trên Mặt Trăng, là một điểm du lịch
Những ngôi nhà bám vào sườn đá núi
Những ngôi nhà lô nhô ngay dưới chân
Một con đường ngoằn ngoèo leo lên cao. Nếu đi xe ô tô sẽ phải leo những con dốc thẳng đứng ở cả ba phía của La Paz
Nhìn về phía Bắc của thành phố
Thành phố dưới chân
La Paz
Khi cáp treo lên đến ga cuối ở trên cùng, chúng tôi từng nghĩ đó sẽ là một đỉnh núi cao. Chỗ này cao hơn trung tâm thành phố gần 400 m.
Nhưng bất ngờ là khi bước ra thì xung quanh là một khu phố rộng rãi tấp nập. Hóa ra trên này bằng phẳng đủ rộng để thành phố vươn lên và tiếp tục phát triển rộng ra.
Từ đây nhìn xuống thành phố
Panorama toàn cảnh La Paz từ trên cao
Đỉnh núi Illimani chìm trong mây ở phía Đông Nam có thể thấy rất rõ từ đây. Đây là đỉnh núi cao thứ hai ở Bolivia, cao khoảng 6500m. Từ đây có thể thấy ngọn núi phủ tuyết vĩnh cửu, đứng sừng sững như một vị thần bảo hộ.
Núi non trập trùng
La Paz cable
Một góc khác của thành phố, nơi bình nguyên cao hơn thành phố trải dài
Cầu thang dốc đứng dẫn xuống núi
La Paz at night
Chúng tôi đã đứng ngắm thành phố trong ánh nắng cuối ngày, thực sự xúc động không biết nói gì hơn.
Ngọn núi tuyết phía xa hiện lên rõ mồn một.
Thành phố lên đèn
La Paz
Sau khi từ trên đỉnh núi đi cáp treo về lại bến cũ, chúng tôi vẫn thấy tiếc rẻ, và làm một việc rất buồn cười là lại mua vé để đi lên đi xuống 1 lượt nữa để ngắm cho thỏa thành phố từ trên cao.
Được biết thành phố có 3 line cáp treo: Màu đỏ (hoàn thành 5/2014), màu vàng (9/2014) và màu xanh (12/2014), tức là chỉ vài tháng trước khi chúng tôi đến, cho nên trước đó các thông tin không giới thiệu mấy về hình thức tham quan thú vị này.
Chia tay với cáp treo, chúng tôi đi bộ dọc theo con phố buổi sáng để về khách sạn, và dừng chân tại một quán ăn dọc đường giải quyết khâu bữa tối.
Tiwanaku - Pumapunku
Ngày thứ 13 của hành trình.
Chúng tôi có 1 ngày ở La Paz, và câu hỏi là sẽ làm gì. Đành rằng thành phố rất rộng và có nhiều điều chưa biết, nhưng cũng có những điểm đến thú vị hơn.
Lúc đầu chúng tôi nghĩ đến Moon Valley, là một thung lũng có địa hình lởm chởm được cho là giống trên Mặt Trăng, hay các hành tinh xa xôi nào đó. Tuy nhiên địa điểm mà chúng tôi hướng đến là Tiwanaku và Pumapunku, một khu di tích khảo cổ nổi tiếng cách La Paz khoảng 40km.
Nền văn minh Tinawaku (300 hoặc lâu hơn trước đó - 1100) không để lại các di sản kí tự nào: họ không có chữ viết. Cái tên gọi kia cũng chỉ là người Inca truyền miệng gọi lại, và người TBN ghi chép lại. Tiwanaku là tên khu di chỉ lớn nhất của họ, do đó trở thành tên chung của cả nền văn minh.
Trong khoảng 1000 năm đầu Công nguyên, người dân ở đây đã phát triển một hệ thống canh tác nông nghiệp chủ yếu là khoai tây với năng suất rất cao, mang lại nguồn lương thực dồi dào, do đó dân số và xã hội đã phát triển và họ đã xây dựng được những công trình từ đá khiến người đời sau phải kinh ngạc. Thậm chí có thuyết còn cho rằng các di chỉ tại Pumapunku phải do người hành tinh khác làm, vì nó chính xác một cách đáng kinh ngạc.
Giai đoạn Tiwanaku được cho là thời kỳ đồ đồng. NHưng thiết chế xã hội của văn minh Tiwanaku thế nào? Họ có vua không? có hình thành một vương quốc không? Hệ thống giao thương trao đổi thế nào?
Không ai trả lời được.
Họ cũng như các nền văn hóa kế tiếp không có chữ viết nên không lưu giữ đuọc lịch sử, chỉ còn đó các di tích làm bằng đá và đất nung rải rác còn lại mà thôi.
Chúng tôi mua một tour để có xe đưa đi và có hướng dẫn viên, bao gồm ăn trưa, mỗi người 300B.
Xe rời thành phố
Dọc đường đi chúng tôi thấy có mấy người Quechua đang làm gì đó trên đồi. HDV nói rằng họ đang làm lễ cúng, một nghi thức cổ xưa của người Quechua, có từ lâu lắm rồi. Họ hiến tế những con llama con để cầu trời, cầu các vị thần ban phúc, hoặc chữa bệnh...
Nơi dãy núi xa kia, các vị thần có nghe thấy và chứng nhận cho họ không?
Tiwanaku
Nền văn minh Tiwanaku phát triển từ đầu công nguyên, và cái người ta biết nhiều nhất về xã hội của họ có lẽ là tôn giáo, vì công trình tôn giáo còn lại chính là khu di tích.
Người Tiwanaku phát triển quanh khu vực hồ Titicaca, và cũng như tất cả các nền văn minh quanh vùng về sau, họ coi hồ Titicaca là cội nguồn của dân tộc mình. Hồ là nơi các vị thần tạo ra đầu tiên, hoặc là nơi các vị thần sông, tạo ra con người. Người Tiwanaku tôn thờ một vị thần tối cao, tên vị thần đó là gì cũng không ai biết. Chỉ đoán rằng văn minh Inca kế thừa có lẽ đã tiếp tục tôn sùng vị thần này, với cái tên Viracocha. Dưới thời Inca, Viracocha là vị thần chủ, tạo ra thế giới và cũng sẽ hủy diệt thế giới, mà thần Mặt trời, Mặt trăng là con của Viracocha.
Có lẽ người Tiwanaku tin vào ba cõi: Trời (thiên đàng), Mặt đất, Lòng đất (địa ngục), điều đó thể hiện trong khu đền thờ còn lại của họ đến ngày nay.
Khu quần thể Tiwanaku được xây dựng trong khoảng năm 200 - 400 công nguyên. Có nhà khoa học còn sử dụng cách tính theo thiên văn, dựa trên các hình ảnh còn lại và cho rằng khu này xây từ 15.000 năm Trước công nguyên, nghĩa là trước tất cả các nền văn minh và di chỉ cự thạch con người từng biết. Tuy nhiên cách tính này bị phê phán rằng đã sai lầm.
Hình ảnh mô phỏng khu đền thờ Tiwanaku thời cực thịnh của nó trong nhà bảo tàng:
Phía gần (phía Nam) được gọi là Akapana, là ngọn đồi cao khoảng 16m, được người Tiwanaku sử dụng và xây đá, gạch bao quanh tạo thành ngôi đền 7 bậc, hình chữ T. Trên đỉnh đền là một hố sâu xuống hình nhiều cạnh, ở chính giữa có một tượng đá. Có thể đó chính là tượng thần Viracocha. Đền cao này tượng trưng cho Trời, kích thước khoảng 250 x 200m.
Bên trên (phía Bắc) là khu Kalasasaya có tường đá vây quanh, tường cao 3-4m, nền đền cao hơn mặt đất khoảng 2m. Khu đền lại có một lớp tường ở giữa nữa. Trong đó ngày nay còn lại hai tượng đá, và nổi tiếng nhất là Cổng Mặt trời (Sun-gate). Khu này tượng trưng cho Mặt đất, kích thước khoảng 120x130m.
Phía bên phải Kalasasaya là một hố đào sâu xuống đất khoảng 3m, xung quanh ghép đá. Chính giữa hố cũng có một cột đá cao. Hố này tượng trưng cho địa ngục, kích thước khoảng 28x26m.
Ngày nay đồi Akapana đã bị hủy hoại rất nhiều, vì các tường xây gạch đã bị hỏng. Còn khu Kalasasaya với các khối đá lớn vẫn còn nguyên vẹn.
Bước vào khu di tích, từ xa đã thấy quả đồi Akapana:
Trên đỉnh quả đồi này có khối đá lớn nhất khu di tích, nặng đến 65 tấn. Nhưng chúng tôi đã không đi lên xem được hết.
Những tảng đá rải rác từ bên ngoài, được thu nhặt lại trong quá trình khảo sát. Hãy để ý các khối đá này: chúng được tạo tác rất chính xác với các mặt, các cạnh vuông góc với nhau hoàn hảo, rất sắc cạnh và phẳng gần như tuyệt đối, tạo thành nhưng khớp nối chính xác. Mà chúng được tạo ra từ cách đây gần 2000 năm, với công cụ là đồ đồng, và đây là loại đá cực kỳ cứng, đến nỗi sau 2000 năm đá gần như không bị hủy hoại mấy.
Khối đá dựng đứng kia có một lỗ tròn cũng rất hoàn hảo. Công dụng của nó để làm gì thì cũng chưa được kết luận.
Ngọn đồi Akapana với phần tường đá ở chân còn lại.
Rồi chúng tôi đến gần đền Kalasasaya, khu đền có tường vây quanh bằng những khối đá lớn. Kalasasaya trong tiếng Quechua nghĩa là "Dựng bằng đá"
Mặt trước của đền, có thể thấy rõ hai phần tường: Phần nhô ra phía trước được làm hoàn hảo với các khối đá nhẵn lỳ phẳng phiu, mặt tường hơi dốc vào trong; và phần lùi vào được làm kém hơn, tường thẳng đứng. Tường phần này có những tảng đá khổng lồ để nguyên khối, xen vào đó là các tảng đá nhỏ hơn.
Bức tường phía trước là một tuyệt tác nếu so với tuổi đời của nó: gần 2000 năm. Có 10 khối đá rất lớn cao 3-4m (không đều nhau) được mài phẳng các mặt, dựng hơi nghiêng vào trong. Và giữa chúng là các khối đá khác được ghép kín khít tuyệt đối, tạo thành một mặt phẳng hoàn hảo, đến mức các nhà kĩ thuật phải kinh ngạc: Độ phẳng này với kỹ thuật hiện đại cũng không dễ làm được, nhất là với loại đá cứng đến thế này.
Hai phía của tường đá là hai phần thấp hơn, có máng thoát nước từ bên trong, vì bên trong nền được đổ cao ngang với phần tường thấp này. Có thể thấy phần mặt trước được làm rất chính xác, còn hai bên thì đá không được phẳng như vậy. Mặt trước tường đá quay ra phía Tây, chắc có vai trò rất quan trọng trong nghi lễ của người Tinawaku.
Tiwanaku
Theo suy đoán của các nhà khảo cổ, đền Apakana trên đồi cao dành cho các tư tế, thì khu Kalasasaya dành cho dân chúng tụ tập, nền đền tạo thành khoảng không gian rộng và phẳng.
Trong nhiều thế kỷ, các di vật trong nền đó đã bị di dời đi nhiều lần, thậm chí bị lấy đi, nên ngày nay rất khó suy đoán về vị trí gốc cũng như chức năng chính xác của nó.
Có hai pho tượng hiện đặt ở hai góc của nền đền Kalasasaya, HDV giới thiệu đó là tượng của thần Viracocha, được tạc từ khối đá nguyên. Một pho chôn chân dưới đất, một pho được đặt trên một nền đá. Cũng có thể đó là tượng của vị Đại tư tế. Tay của tượng cầm hai vật thiêng liêng: tay trái cầm 1 cái cốc cao tượng trưng cho nước thiêng, tay phải 1 cây gậy ngắn tượng trưng cho quyền lực, hoặc một vị thần khác. Trên thân tượng có rất nhiều các hình biểu tượng, mà nhiều nhất là hình con cá, tượng trưng cho hồ Titicaca.
Tượng chân chôn trong đất:
Tượng đặt trên nền là thần Viracocha
Tiwanaku - Gate of the Sun
Di tích được nói đến nhiều nhất ở Tiwanaku có lẽ là "cổng Mặt trời" (Gate of the Sun). Đây là một cổng được tạc từ một tảng đá nguyên khối từ rất lâu, ước chừng 1500 năm trước. Cổng thực ra không lớn lắm, chỉ cao 3m và ngang 4m, lối đi chỉ vừa một người đi lọt.
Cổng nổi tiếng vì hình điêu khắc trên đó: được cho là tượng trưng cho kiến thức thiên văn, thời tiết của người Tiwanaku.
Khi người châu Âu tìm đến đây, họ thấy cổng đã bị vỡ làm đôi: một vết vỡ chéo làm hai phần nghiêng vào nhau, muốn đổ. Về sau người ta đã gác lại hai phần dựa vào nhau và cổng còn đứng như đến nay.
Phía trên cổng, chính giữa là hình một vị thần, có thể là thần Mặt Trời, hoặc thần Vũ trụ Viracocha (cái tên này của người Inca về sau). Xung quanh chia làm 3 hàng, gồm 48 ô vuông, mà người ta phân tích ra là có 32 hình mặt người và 16 hình đầu chim kền kền (condor).
Lúc này HDV nói nhiều lắm về ý nghĩa của các hình, và con số của các hình, nào là 12 hình hàng dưới tượng trưng cho 12 tháng, 30 hình tượng trưng cho 30 ngày trong một tháng... Tuy nhiên phải nói thật là tôi thấy những con số đó được đưa vào một cách cũng khá là tương đối. Có vẻ như các hình được khắc trên đó vẫn còn thiếu, vì ở cuối hàng có những hình còn có một nửa hoặc chưa hoàn chỉnh thì đã "hết đá". Phải chăng cổng này còn gắn kết với những công trình nào đó nữa đã hoàn toàn biến mất, và vì thế có thể người ta cũng chưa biết hết các ý nghĩa của các biểu tượng, hoặc đơn giản các biểu tượng chỉ có tính trang trí, sự gán ghép ý nghĩa cũng chỉ là suy luận mà thôi.
Dẫu sao đây cũng là di tích có tính biểu tượng cho một nền văn minh đã mất.
Ảnh chụp rõ hơn, ảnh trên mạng (http://nmai.si.edu/inkaroad/ancestors/beginningsoftheroad/tiwanaku.html), lúc chúng tôi đến ngược nắng nên không chụp chi tiết được thế này
Giữa sân còn có một bàn thờ bằng đá
Có hai vòng tường đá và một số tượng đá còn sót lại, đều mang ý nghĩa thờ cúng. Những cột đá không phải là tượng thần, mà chỉ có một số biểu tượng
Xung quanh là tường đá, có những tảng đá cao hơn nhô lên. Số cột đá cũng có ý nghĩa thiên văn nhất định, mà giờ tôi quên hết rồi.
Tiwanaku - Semi-subterranean Temple
Mặt sau của đền Kalasasaya là một cổng đá chữ nhật với những bậc thang được đẽo gọt cẩn thận, hai bên có các trụ đá cao trấn giữ. Từ đây nhìn xuống một nền hố được đào sâu xuống mặt đất khoảng gần 3m, nơi tượng trưng cho địa ngục.
Phần đền này giống như một bể bơi vậy, bốn phía xây đá thẳng đứng, cao bằng mặt đất và chỉ có một lối xuống. Ở giữa là một ô vuông có 3 cột đá, cây cột cao nhất gọi là cột Bennert, có khắc các hình bàn tay ôm lấy nhau, cao 7,5m. Có người cho rằng đây là biểu tượng cho thần Đất mẹ Pachamama. Tuy nhiên Pachamama là tên gọi của thời đại Inca, còn người thời Tiwanaku thờ ai, và tên là gì thì luôn là bí ẩn.
The faces
Điều lạ lùng nhất chính là các bức tường vây quanh ngôi đền nửa chìm này: được dựng bằng đá, và xen vào đá là 175 khuôn mặt nhô ra nhăn nhó. Các khuôn mặt đá này không cái nào giống cái nào cả về kích thước lẫn cách thể hiện. Cứ như những người thợ đã lấy ngẫu nhiên các hòn đá và khắc gì họ thích lên trên đó. Có cái đội mũ, có cái không, thậm chí chúng không giống mặt người bình thường, và có thuyết cho rằng đó là khuôn mặt của người từ hành tinh khác.
Qua thời gian nhiều thế kỷ, các hòn đá nhô ra bị bào mòn nhiều, nên nhiều mặt đã không còn nguyên dạng
Các khuôn mặt bị bào mòn, nhìn trực diện có khi rất khác với nhìn nghiêng, lúc rõ lúc mờ, lúc ẩn lúc hiện. Nếu nhìn thẳng có thể chúng sẽ chìm vào đá, khuất đi trong những bóng hình khác. Nhưng khi nhìn nghiêng chúng sẽ nổi ra rõ mồn một, như đang trò chuyện với nhau, rì rầm kể lại quá khứ một thời xa lắm.
Chẳng có khuôn mặt nào tươi vui, chúng đều thể hiện sự ngạc nhiên, buồn khổ, giận dữ, chịu đựng. Giống như những người bị chôn chặt vào tường chỉ còn lộ đầu ra vậy.
Những khuôn mặt này là của ai, phải chăng ngày xưa có một giống người đã nổi dậy chống lại uy quyền của các vị thần, và rồi chúng bị giam vào bốn bức tường này, toàn bộ thân thể bị chìm sâu, chỉ có cái đầu là nhô ra để chứng kiến thời gian dổi thay. Tất cả chúng đều hướng vào khối đá ở chính giữa, như bị khối đá đó trấn áp, phong ấn. Chúng cầu nguyện van xin, hay chúng căm hờn giận dữ, hay đau đớn tủi nhục, nào ai biết.
Tôi tưởng tượng nếu vào một đêm trăng có nhiều mây, khi ánh trăng thỉnh thoảng lộ ra rồi lại khuất đi, bước vào khu đền này, chắc có thể nghe được tiếng thở, tiếng nói, cái cựa quậy nhọc nhằn của hàng trăm con người đá bị chôn chặt trong các bức tường, chịu khổ đau và dằn vặt.
Tiwanaku
Nhìn từ ngôi đền chìm lên phía đền nổi ở trên
Ngôi đền Kalasasaya bốn phía là những khối đá rất lớn xen kẽ các tảng đá nhỏ hơn. Mỗi cạnh dài có 12 khối đá lớn, được cho là tính toán theo thiên văn và tương ứng với 12 tháng trong năm. Còn vô số các chi tiết khác nữa mang tính khoa học, mà giờ tôi cũng quên bớt rồi
Có những máng thoát nước được làm rất khoa học để nước không làm hỏng tường đá cũng như nền đất của đền. Tôi chỉ thắc mắc là không biết khi mưa nhiều thì cái đền nửa chìm kia có biến thành một bể nước lớn không, khi tất cả nước mưa đều dồn vào đó?
Pumawaku
Cách không xa Tiwanaku là khu Pumapunku. Puma là con báo, Punku là tòa cổng, nên Pumapunku là "cổng báo". Đây là cái tên Inca của công trình cổ đại trước thời Inca rất lâu.
Người Inca tôn sùng 3 con vật: Con kền kền làm chủ bầu trời, con báo làm chủ mặt đất, con rắn là bên dưới lòng đất. Họ cũng gọi phế tích ngôi đền theo tên loài báo, có lẽ vì trong tâm trí của họ, ngôi đền này dựng trên mặt đất nên người Inca đặt như vậy.
Khu phế tích này không quá lớn, nhưng trở thành một trong những bí ẩn lớn nhất của khảo cổ học: Nó được tạo ra để làm gì, tôn thờ vị thần nào hay có mục đích nào khác? Tại sao lại có những cấu trúc kì lạ như vậy ở đây, và kĩ thuật nào đã được sử dụng để tạo tác những khối đá kì lạ đến như vậy?
Ngay thời đại xây dựng của Pumapunku cũng không được thống nhất. Có thuyết nói là khoảng năm 500, có thuyết nói xa xưa hơn nữa.
Ở Pumapunku có khối đá lớn nhất dài hơn 7m, ngang 5m, dầy 1m và nặng đến nặng đến 130 tấn. Làm sao người cổ có thể di chuyến những khối đá lớn như vậy từ mỏ đá cách đến 10km, khi mà họ không có bánh xe, cùng lắm chỉ là các cây gỗ.
Bên cạnh đó, các khối đá ở Pumapunku được tạo tác vô cùng chính xác mà chỉ có thể hoàn thành với kỹ thuật rất cao. Có những hình chữ H bằng đá, các rãnh sâu thẳng với các lỗ rất nhỏ nhưng cực kỳ thẳng và xuyên qua đá cứng; những lỗ tròn tuyệt đối và nhẵn thín; các lỗ mộng hình ngôi sao, hình đa giác rất sắc cạnh trên đá cứng.
Nếu chỉ là những lỗ đục xuyên hoàn toàn qua đá thì còn có thể dễ hiểu hơn, còn ở đây lại chỉ là những lỗ hõm, mà các góc vuông tuyệt đối là điều cực kỳ khó làm ngay cả với các lưỡi mài, lưỡi dao hiện đại. Hãy tưởng tượng bạn phải đục vào đá một hốc vuông hoàn toàn, thì góc chỗ ba mặt phẳng chạm nhau làm thế nào để chính xác? Ngay cả các lưỡi cưa cũng không làmd được, chỉ có thể dùng tia laze hoặc các công nghệ cực kỳ hiện đại mà thôi.
Pumapunku với khối đá cực lớn ở giữa
Các nền đá nằm rải rác, ngày nay không thể biết nguyên bản ra sao, và không thể phục chế.
Các khối đá rải rác
Pumapunku
Chính vì sự chính xác đến kì lạ của các khối đá được tạo tác từ hàng nghìn năm trước ở Pumapunku, mà có nhiều người cho rằng người cổ đại đã phải có một công nghệ, kỹ thuật vô cùng cao, rất có thể đến từ người hành tinh khác. Và như vậy Pumapunku có thể là một điểm đánh dấu có ý nghĩa nào đó với nền văn minh ngoài hành tinh.
Tương tự, các hình vẽ khổng lồ trên sa mạc Nazca ở Peru cũng được cho là có thể đến từ nền văn minh ngoài trái đất.
Một số các hình tạc khắc vô cùng chính xác và tinh xảo từ hàng nghìn năm trước ở Pumapunku:
Chúng tôi rời Tiwanaku - Pumapunku khi chiều đã buông.
Đường về lại mênh mông theo dãy Andes. Từ nghìn năm xưa, khi những người cổ đại đã từng đến đây, bước đi, khai phá mảnh đất này, và để lại các di tích, chắc họ cũng đã từng đứng ngắm rặng núi xa phủ tuyết như chúng tôi bây giờ.
Nền văn minh Tiwanaku đã lùi vào dĩ vãng. Điều gì đã hủy diệt họ, khiến họ rời đi và không tiếp tục xây dựng nên những công trình kì lạ như thế nữa? Phải chăng khi các vị thần từ trời đã bay đi, khi mà thời tiết mùa màng không còn như trước, họ đã phải xa rời mảnh đất này...
Chúng tôi về lại La Paz khi hoàng hôn đã buông. Nhờ xe chở cả đoàn nên dừng lại ở chợ và mua được rau thịt.
Tối hôm đó chúng tôi đem số mì chũ mang từ nhà đi nấu một bữa no căng và hợp khẩu vị. Hotel này có bếp để nấu ăn, tuy không rộng rãi nhưng ấm cúng.
Vậy là kết thúc ngày thứ 13. Ngày mai chúng tôi sẽ rời Bolivia, một đất nước mà lúc đầu tưởng rằng không quá đặc biệt, hóa ra lại là nơi đem lại nhiều cảm xúc nhất trong cả chuyến đi.
Lake Titicaca
Ngày 14.
Buổi sáng chúng tôi chờ xe đã đặt đón từ khách sạn để đi Cochacabana bên bờ hồ Titicaca.
Hồ Titicaca là hồ nước ngọt cao nhất thế giới, ở độ cao gần 4000m. Diện tích hồ là hơn 8000km2, tức là rộng ngang với diện tích Hà Nội sau khi đã sát nhập Hà Tây. Đây là hồ rộng nhất Nam Mỹ, nằm giữa Bolivia và Peru.
Hồ không chỉ là nguồn sống quan trọng của hàng triệu cư dân quanh đó từ hàng nghìn năm, là một môi trường sinh thái quan trọng, mà còn có vai trò vô cùng thiêng liêng trong tâm linh của người dân Nam Mỹ.
Tên hồ Titicaca do người TBN ghi lại, có nhiều cách giải thích, trong đó cách được chấp nhận nhiều nhất mang nghĩa là "Con báo màu tối". Người Inca tôn thờ con báo như là hiện thân của các vị thần, và hồ này cũng được coi là một con báo khổng lồ.
Theo truyền thuyết cổ đại của người dân bản địa, hồ Titicaca là trung tâm thế giới. Vị thần Viracocha tạo ra thế giới, lấy hồ làm trung tâm. Đầu tiên thần tạo ra giống khổng lồ bằng đá, sau đó lại hủy diệt đi. Thần tạo ra con người, nhưng rồi lại làm một trận hồng thủy để diệt hết, chỉ để lại 2 người sống sót, và là thủy tổ của loài người ngày nay. Truyền thuyết này không tương đồng với rất nhiều huyền thoại khác.
Từ hai hòn đảo giữa hồ, Viracocha tạo ra hai vị thần là Mặt Trời và Mặt Trăng, đều sáng rực rỡ. Thần Mặt Inti Trời ghen tức với ánh sáng của Mặt Trăng nên đã ném bùn tro vào Mặt Trăng, nên Mặt Trăng bị mờ đi và yếu hơn, nên ban đêm tối hơn ban ngày. Mồ hôi của Mặt Trời tạo thành vàng, và nước mắt Mặt Trăng tạo thành bạc. Hai hòn đảo Mặt Trời và Mặt Trăng giữa hồ trở thành hai nơi rất thiêng liêng.
Người Inca đã tiếp nhận niềm tin này, và tạo dựng tôn giáo của họ, và có 4 vị thần quan trọng nhất: Viracocha là Thần tạo dựng thế giới, Nữ thần Cochamama là Đất mẹ, thần Mặt trời và Mặt trăng. Họ cũng cho rằng vị vua Inca đầu tiên Manco Capac được thần Mặt trời Inti vớt lên từ đáy hồ Titicaca, và đặt làm vua của cả vùng đất này.
Ngày thứ 14, chúng tôi rời La Paz trong thời tiết ảm đạm, mây mù mịt, chứ không nắng rực rỡ như hôm qua. Thần Mặt trời có vẻ không vui lắm khi chúng tôi rời Thủ đô thì phải.
Rồi chúng tôi thấy hồ Titicaca từ xa
Xe chở chúng tôi đến một bến phà, nơi có hai bán đảo nhô ra gần nhau, chia hồ Titicaca làm hai phần, phía Bắc rộng hơn, và phía Nam nhỏ hơn. Cả hai bên bến đều thuộc Bolivia.
Thị trấn bên kia hồ
Cano chở người, và "phà" để chở xe ô tô
Những người dân bán hàng bên bến phà, chúng tôi cũng mua mấy thứ hạt ăn chơi.
Có đôi chú llama rất dễ thương bên cạnh cái ghế hình chiếc thuyền bằng sậy
Con đường lại chạy men bên hồ để đến thị trấn Copacabana
Copacabana
Copacabana là một thị trấn nằm bên hồ Titicaca, là một điểm du lịch có tiếng ven hồ.
Tên gọi này được cho là từ tên vị thần Sinh sôi, Phì nhiêu, thần làm cho đất đai màu mỡ Kotakawana. Đây là vị thần vừa nam vừa nữ, vì vậy mới đem lại sự sinh sôi nảy nở. Thần cũng được sinh ra từ hồ Titicaca, và thị trấn này là nơi có đền thờ thần.
Những người TBN khi xâm chiếm đã gọi tên thị trấn theo vị thần nơi đây, phiên âm thành Copacabana. Ngôi đền thờ bị phá bỏ để dựng lên nhà thờ, mang tên Đức Mẹ. Nhà thờ nơi đây được coi là thiêng liêng, và cũng là điểm hành hương của những người mộ đạo, và được phong Vương cung thánh đường (basilica).
Chúng tôi đến thị trấn khi đã sang chiều, sau khi lấy phòng nghỉ thì nắng đang rực lên sau cơn mưa.
Từ cửa sổ trên tầng hostel, ngôi thánh đường quét vôi trắng nổi bật lên ở phía xa.
Ở bên gần hồ là một ngọn đồi cao mà người Bolivia theo Công giáo, coi ngọn đồi đó giống như đồi Calvary (đồi Sọ, nơi chúa Jesus bị đóng đinh) nên hành hương về đây cúng tế.
Buổi chiều, chúng tôi lang thang trong thị trấn, có vẻ không phải mùa du lịch nên vắng vẻ và bình yên. Những áng mây chiều kéo từ núi về phía hồ, tối sẫm một góc.
Nhà thờ Copacabana được dựng trên một đồi thấp giữa thị trấn, trên nền một bàn thờ thần cổ của người Inca. Đây là nơi linh thiêng bậc nhất của Bolivia, nơi có hai ngôi đền thờ quan trọng trong tín ngưỡng Inca và Kito giáo.
Đức mẹ là Thánh quan thầy của Bolivia, và nhà thờ được dựng từ thế kỷ 16 này cũng mang tên Vương cung thánh đường Đức Mẹ Copacabana, nên rất được tôn sùng.
Đi vào nhà thờ Trắng, nơi có sân rộng và những công trình với kiến trúc rất đẹp. Cổng bên chóp tam giác và mái vòm khảm gạch men xanh
Ba cây thánh giá dưới một mái vòm trắng. Ba cây thập giá tượng trưng cho khi Jesus bị đóng đinh, thì hai bên trái phải cũng có hai tử tội bị đóng lên thập giá. Một người đã cười nhạo, còn một người đã tin theo Jesus và được lên thiên đường. Cây thập giá của Jesus ở giữa cao nhất.
Bên trong lại là những tuyệt tác bằng gỗ.
Nhà thờ được dựng từ thế kỉ 16, trong đó có bức tượng Đức Mẹ Copacabana được coi là linh thiêng bậc nhất của Bolivia. Bức tượng được đeo các trang sức vàng bạc từ nhiều thế kỷ trước. Năm 2013 kẻ trộm đột nhập và lấy cắp các trang sức bằng vàng bạc, nên pho tượng gốc được cất kĩ, chỉ còn lại phiên bản ở bàn thờ chính.
Khu vực này cấm chụp ảnh, nên những bức ảnh này là chụp lén.
Copacabana
Buổi trưa chúng tôi ăn ngay gần chỗ nghỉ. Đây là thị trấn du lịch nên có các quán ăn và giá cả cũng hợp lý.
Sau khi thăm nhà thờ, lại lang thang ra phía bờ hồ Titicaca. Thị trấn này là nơi có các tour đi đảo Mặt Trời, Mặt Trăng, là những nơi thiêng liêng của người Inca. Tuy nhiên thời gian chúng tôi không phù hợp (Chiều hôm trước đến, trưa hôm sau đi) và trong lịch trình có đảo Taquila nên đành bỏ qua hai hòn đảo quan trọng này.
Chiều trong thị trấn, vắng vẻ, bình yên.
Cạnh nhà thờ là một quảng trường nhỏ, có những giống cây mà cành thì chi chít dày đặc:
Một căn nhà cũ, với khung cửa đá rất đẹp. Ngày xưa chắc đây cũng phải là của nhà nào giàu có lắm
Một khu nhà đang xây kiểu phong cách cổ tích, không biết sẽ là khách sạn hay gì đây?
.
.
.
Và buổi chiều, nhìn về phía hồ thì rất là buồn
Toàn cảnh bến thuyền của Copacabana, có rất nhiều cano, và những thuyền dành cho du khách. Trông cũng không khác gì bến đậu thuyền của một nước phát triển, chỉ có những chiếc cầu cảng là đóng bằng gỗ ọp ẹp, treo đầy lốp xe...
Đó là buổi tối khiến tôi có nhiều cảm xúc buồn nhất. Trong khi bạn đồng hành đã đi về, tôi ra một cầu thuyền và ngồi tại đó, không biết bao lâu. Có lẽ 1 hoặc 2 giờ. Từ đó nhìn ra hồ đang tối sẫm lại, về phía bờ đang lên đèn. Một mình, tách biệt khỏi cả hai thứ đó. Lấy cuốn sổ nhỏ và bút chì ra viết. Bóng tối nên không nhìn thấy gì, cứ viết theo thói quen, theo cảm nhận trên trang giấy mà thôi.
"Đang ngồi trên cầu thuyền ra hồ Titicaca trong chiều tắt dần. Buồn thê lương, với không gian đọng lại, chỉ còn ta với ta. Lúc này thấy nhớ tất cả. Dường như tất cả mọi ngày dồn lại nơi đây. Có ai không, lạnh, nhưng tự tại. Chỉ mình mình, hiểu, thậm chí không hiểu mình muốn gì....
...Giá mà thời gian dừng lại mãi thế này. Để không còn phải suy nghĩ, không còn phải ưu tư lo lắng, không còn phải yêu thương oán giận, không còn phải chờ đợi, không còn hạnh phúc, không còn khổ đau, không còn nỗi nhớ, không còn mai sau."
Buổi tối chúng tôi tản mạn ăn theo ý mình, giờ tôi cũng không nhớ nổi là ăn gì nữa.
Chiều rồi tối xuống khá lạnh, gió thổi từ hồ và độ cao 4000m làm chúng tôi phải khoác áo đội mũ đầy đủ.
Ở gần bến xe là một khu bán đồ ăn đêm, với mấy món bánh gì đó, trứng tráng nữa. Chúng tôi cũng thử mỗi người một ít. Là lạ nhưng không ngon lắm. Nhìn thấy có cả quán ăn Thái ở đây nữa, nên hẹn trưa mai sẽ ra đây ăn.
Rồi thấy mấy bà bán đồ nướng đêm, tôi nhớ ra vẫn còn mấy con mực. Câu chuyện nướng mực bị cháy ở Rio lại trở thành chủ đề để cười rôm rả. Tôi chạy về lấy mực khô ra. Nhưng vì bất đồng ngôn ngữ, chúng tôi không thể nào diễn tả cho bà bán hàng ý muốn: thuê cái bếp để nướng đồ của mình.
Sau may có một ông già quét vệ sinh đứng cạnh có biết chút tiếng Anh, thế là nhờ ông nói hộ. Lúc đầu bà bán tưởng chúng tôi muốn dùng cái chảo của bà, nên giãy nảy lên ý rằng không được rán đồ của chúng mày trên chảo của tao. Sau phải dùng đủ mọi cách thể hiện mới thuyết phục được.
Thế hí húi nướng mực, khi được thì chia cho bà bán cùng ông già đã giúp. Họ nếm thử rồi thể hiện thích thú, nhưng tôi đoán là họ cũng chẳng thấy ngon gì đâu. Có phải ai cũng nhai được mực khô nhà ta đâu.
Nướng hết chỗ mực rồi mua bia đem về phòng. Tối đó chúng tôi có một bữa nhắm xa quê nhớ nhà !!!
Copacabana
Sáng hôm sau, mọi người lang thang trong thị trấn, đi dạo ven bờ hồ.
Còn tôi trèo lên đỉnh đồi Calvary, vì từ đây có thể nhìn ra toàn cảnh hồ Titicaca.
Có hai đường lên, một từ ven hồ một từ trung tâm thị trấn. Tôi đi theo đường từ ven hồ.
Hai con đường rồi cũng lên cùng một điểm là cây thập giá bằng đá. Từ đây leo bậc thang, và được coi như diễn tả lại hành trình khổ nạn của Chúa Jesus. Đầu đường là bức tượng Chúa vác thập giá, đằng sau là nhìn xuống hồ
Có những góc ngồi nhìn ra hồ tuyệt đẹp, điểm hoa vàng
Hoa vàng hồ xanh thẫm dưới nắng của ngày mới
Bậc thềm với cây thập giá này đánh dấu điểm cao nhất của đồi. Từ đây còn một đoạn nữa là nhìn ra toàn cảnh hồ. Phía sau là một loạt các bàn thờ tưởng niệm Jesus. Cũng có quá nhiều người "đánh dấu" lên cái tượng đài này
Toàn cảnh hồ khi đứng trên đỉnh đồi Calvary
Mỏm đá cao cuối cùng của đồi
Con người nhỏ bé trước thiên nhiên
Tôi cũng muốn có ai đó chụp cho mình thế này mà không có ai cả, mà cũng không thích nhờ
Nên đành tự sướng thế này vậy
Một người phụ nữ làm đỏm để chồng chụp ảnh, bà cười rất rạng rỡ, và hơi xấu hổ một chút khi thấy tôi cũng muốn chụp bà. Nhưng bà cũng rất vui vẻ cười khi tôi cười chào, và xổ ra một tràng thứ tiếng tôi chiụ chết, là tiếng Quechua chứ không phải tiếng TBN - mà tiếng TBN tôi cũng chịu.
Gần đỉnh đồi có mấy sạp bán hàng, họ chưa mở hết có lẽ vì buổi sáng ít khách, chiều mới đông hơn.
Và đây là những thứ họ bán: Những căn nhà giấy màu sắc sặc sỡ xinh xinh, rất đẹp. Lúc đầu tôi nghĩ là đồ thủ công cho trẻ con chơi cơ.
Nhưng nhìn lại kĩ hơn mới thấy còn rất nhiều tiền giấy in ! Hóa ra đây là đồ vàng mã và tiền âm phủ, dùng cho cầu cúng và đốt cho người chết. Tập tục y như nhà mình vậy. Tôi xem những người đang "hóa vàng" thì họ cũng đốt hàng tập tiền mã này.
Tôi nhìn lại lần cuối đỉnh đồi Calvary. Cũng như tất cả các điểm đến trong hành trình này, không biết có bao giờ quay lại nữa không. Nếu có quay lại đây, chắc tôi cũng đã lười và ko dễ để trèo lên các bậc đá đó nữa. Tôi cũng không có đức tin Kito để có thể hành hương lên đây lần nữa.
Và nhìn mặt hồ từ trên cao lần cuối
Thị trấn Copacabana với nhà thờ Trắng ở giữa
Trưa đó chúng tôi ăn ở quán Thái gần chỗ xe sẽ đón. Kéo hết đồ đạc ra đây, chúng tôi ăn cũng vội vã vì không có nhiều thời gian.
Tuy thế vẫn còn thời gian, tôi đổi hết tiền của cả đoàn sang tiền Perú, vì từ đây sẽ không dùng đến tiền Bolivia nữa.
1h chiều xe chạy, chẳng mấy chốc đưa chúng tôi đến biên giới Bolivia - Peru.
Đây là cái cổng ngăn cách giữa hai nước. Cái cổng vòm đá này là đặc trưng kiến trúc của vùng này. Sang bên Peru gặp nhiều hơn.
Sát biên giới là một nhà thờ nhỏ, chúng tôi không vào. Vậy là từ biệt đất nước Bolivia tươi đẹp. Trong hành trình ban đầu chúng tôi không nghĩ Bolivia thú vị đến vậy, nhưng đi rồi mới biết nơi đây để lại quá nhiều cảm xúc và kỉ niệm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét