Từ cội nguồn xa xưa
Núi Nùng - sông Tô
Thần chủ của Thăng Long
Tiếp tục quay lại chuyện vị Thần chủ của Thăng Long.
Truyện Lĩnh Nam chính quái và Việt Điện U linh chép rằng (vắn tắt) khi Cao Biền đi thuyền trên sông Tô Lịch thì thấy một vị thần hiện ra trên sông, rồi làm phép khiến sóng gió mù mịt mà biến mất. Lại lần nữa khi đang xây thành Đại La, Cao Biền đi ra phía đông thành, bỗng nhiên thấy mây khói mù mịt, trong đó có vị thần đang ngự, xung quanh âm nhạc nổi lên, Cao Biền kinh hãi ngã lăn. Đêm đó vị thần hiện ra báo mộng, xưng là "Long Đỗ chính khí Thần quân" của đất này đến xem xây thành, không việc gì phải sợ.
Vốn hay trấn yểm các quỷ thần, long mạch, Cao Biền dựng ngôi đền, làm tượng thần, lấy nghìn cân sắt để trấn yểm chỗ thần hiện ra. Bỗng nhiên trời nổi cuồng phong sấm, sét đánh nghìn cân sắt vụn ra thành tro bụi. Cao Biền kinh sợ lập đền thờ thần Long Đỗ và nói rằng "Ta phải về Bắc thôi". Sau này Biền bị vua nhà Đường gọi về và xử tội chết.
Thần Long Đỗ của Núi Nùng và thần sông Tô Lịch là một hay là hai? Đến nay đa số đều cho rằng chỉ là một vị, là Thần chủ của đất này; nhưng cũng có thuyết cho là hai vị thần.
Đến khi Lý Thái Tổ dời đô, tương truyền xây thành bị đổ mãi, bèn đến cầu ở đền thần Long Đỗ có từ thời Cao Biền, thì có con ngựa trắng chạy ra, xây thành theo vết chân ngựa thì mới không đổ. Bởi thế vua tôn là thần Bạch Mã. Hiện nay đền ở phố Hàng Buồm, là đền Trấn Đông nổi tiếng của Thăng Long.
Và Thần chủ Long Đỗ trở thành Thành hoàng của thành Thăng Long. Thần có rất nhiều tôn hiệu qua các triều đại:
- Quảng Lợi Bạch Mã Tối linh Thượng đẳng thần
- Quảng Lợi Thánh hựu Uy tế Phu ứng đại vương
- Long Đỗ Thần quân Bạch Mã Hựu chính Đại vương
- Đô phủ Thành hoàng Thần quân
- Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc đô Thăng Long Thành hoàng đại vương
Truyện Lĩnh Nam chính quái và Việt Điện U linh chép rằng (vắn tắt) khi Cao Biền đi thuyền trên sông Tô Lịch thì thấy một vị thần hiện ra trên sông, rồi làm phép khiến sóng gió mù mịt mà biến mất. Lại lần nữa khi đang xây thành Đại La, Cao Biền đi ra phía đông thành, bỗng nhiên thấy mây khói mù mịt, trong đó có vị thần đang ngự, xung quanh âm nhạc nổi lên, Cao Biền kinh hãi ngã lăn. Đêm đó vị thần hiện ra báo mộng, xưng là "Long Đỗ chính khí Thần quân" của đất này đến xem xây thành, không việc gì phải sợ.
Vốn hay trấn yểm các quỷ thần, long mạch, Cao Biền dựng ngôi đền, làm tượng thần, lấy nghìn cân sắt để trấn yểm chỗ thần hiện ra. Bỗng nhiên trời nổi cuồng phong sấm, sét đánh nghìn cân sắt vụn ra thành tro bụi. Cao Biền kinh sợ lập đền thờ thần Long Đỗ và nói rằng "Ta phải về Bắc thôi". Sau này Biền bị vua nhà Đường gọi về và xử tội chết.
Thần Long Đỗ của Núi Nùng và thần sông Tô Lịch là một hay là hai? Đến nay đa số đều cho rằng chỉ là một vị, là Thần chủ của đất này; nhưng cũng có thuyết cho là hai vị thần.
Đến khi Lý Thái Tổ dời đô, tương truyền xây thành bị đổ mãi, bèn đến cầu ở đền thần Long Đỗ có từ thời Cao Biền, thì có con ngựa trắng chạy ra, xây thành theo vết chân ngựa thì mới không đổ. Bởi thế vua tôn là thần Bạch Mã. Hiện nay đền ở phố Hàng Buồm, là đền Trấn Đông nổi tiếng của Thăng Long.
Và Thần chủ Long Đỗ trở thành Thành hoàng của thành Thăng Long. Thần có rất nhiều tôn hiệu qua các triều đại:
- Quảng Lợi Bạch Mã Tối linh Thượng đẳng thần
- Quảng Lợi Thánh hựu Uy tế Phu ứng đại vương
- Long Đỗ Thần quân Bạch Mã Hựu chính Đại vương
- Đô phủ Thành hoàng Thần quân
- Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc đô Thăng Long Thành hoàng đại vương
Lại có thuyết cho rằng cái tên Long Đỗ là tên của một làng Việt cổ đã có tại đây từ rất lâu trước khi lập thành Đại La, và Tô Lịch là tên của người có công lập làng từ xa xưa. Như thế Thần Long Đỗ - Tô Lịch là một vị Nhân thần.
Còn nếu không theo thuyết đó, thì Thần Long Đỗ là vị Nhiên thần. Cá nhân tôi thích đó là một vị Nhiên thần trường tồn với sông núi hơn!
Bên cạnh đó, hình tượng Bạch Mã không phải chỉ là Ngựa trắng đơn thuần, Ngựa tượng trưng cho khí Dương, màu Trắng tượng trưng sự khởi đầu, và Bạch Mã còn là hình tượng của Mặt Trời mọc, đại diện cho hướng Đông.
Nếu có con ngựa trắng chạy ra từ đền, thì đó cũng chỉ là do Thần Long Đỗ sai khiến, chứ đó không phải là thần.
Do đó, đến thăm đền Bạch Mã, thì khấn Long Đỗ Thần quân, chứ đừng cầu xin gì ở con ngựa trắng cả.
Còn nếu không theo thuyết đó, thì Thần Long Đỗ là vị Nhiên thần. Cá nhân tôi thích đó là một vị Nhiên thần trường tồn với sông núi hơn!
Bên cạnh đó, hình tượng Bạch Mã không phải chỉ là Ngựa trắng đơn thuần, Ngựa tượng trưng cho khí Dương, màu Trắng tượng trưng sự khởi đầu, và Bạch Mã còn là hình tượng của Mặt Trời mọc, đại diện cho hướng Đông.
Nếu có con ngựa trắng chạy ra từ đền, thì đó cũng chỉ là do Thần Long Đỗ sai khiến, chứ đó không phải là thần.
Do đó, đến thăm đền Bạch Mã, thì khấn Long Đỗ Thần quân, chứ đừng cầu xin gì ở con ngựa trắng cả.
, tôi cũng chờ câu hỏi này, giờ mới có Miên Nữ hỏi.
Nếu nói là "chính thức" thì không có ai cả, mà Tứ Bất tử chỉ là lưu truyền dân gian. Chỉ khi có sắc phong từ Triều đình thì mới là chính thức không thay đổi. Còn Tứ Bất tử là do tín ngưỡng dân gian, nên ai vào ai ra, ai có ai không rất thoáng, tuỳ thời gian và địa điểm.
Tôi cũng từng viết trong topic "Chùa đất Việt" là Quốc sư Minh Không cũng được xếp vào trong Tứ Bất tử, tương tự như Từ Đạo Hạnh, và tuỳ vào vùng miền nào tôn sùng vị Thánh tổ nào mà sẽ lấy vị đó.
Về Quốc sư Minh Không, sách cổ và cả lưu truyền dân gian rất hỗn độn giữa các danh: Nguyễn Minh Không, Khổng Minh Không, Dương Không Lộ, Không Lộ thiền sư... Có thuyết nói là hai người, có thuyết nói là một mà mang các tên khác nhau. Có thuyết đề cập Minh Không là Quốc sư chữa bệnh cho vua, lại cũng có thể là ông tổ nghề đúc đồng, dùng thần thông lấy đồng từ Trung Quốc về, lại cũng có thể là ông tổ của một loạt chùa vùng Nam Định - Thái Bình.
Dù trong thuyết nào thì Minh Không - Không Lộ cũng có tên tuổi và năm sinh năm mất tương đối rõ ràng.
Còn Từ Đạo Hạnh không bị nhầm lẫn với ai, và cá nhân tôi cảm thấy tính "huyền bí" của Từ Đạo Hạnh mạnh hơn. Đặc biệt là về huyền thoại Hoá thân của ông. Ông không chết, mà chỉ hoá từ kiếp Thánh sang kiếp Vua, và người ta tin rằng khi kiếp Vua hết, ông lại hoá trở về kiếp Phật. Vì thế trong chùa Thầy thờ cả ba kiếp của ông, với kiếp Phật ở giữa, là kiếp quan trọng nhất và cũng là kiếp trường tồn.
Như thế, với tâm linh dân gian, tôi thấy tính Bất tử của Từ Đạo Hạnh rõ ràng hơn. Vì vậy tôi đã chọn Từ Đạo Hạnh khi xét đến các vị Thánh hộ trì Thăng Long trong bài viết này.
Nếu nói là "chính thức" thì không có ai cả, mà Tứ Bất tử chỉ là lưu truyền dân gian. Chỉ khi có sắc phong từ Triều đình thì mới là chính thức không thay đổi. Còn Tứ Bất tử là do tín ngưỡng dân gian, nên ai vào ai ra, ai có ai không rất thoáng, tuỳ thời gian và địa điểm.
Tôi cũng từng viết trong topic "Chùa đất Việt" là Quốc sư Minh Không cũng được xếp vào trong Tứ Bất tử, tương tự như Từ Đạo Hạnh, và tuỳ vào vùng miền nào tôn sùng vị Thánh tổ nào mà sẽ lấy vị đó.
Về Quốc sư Minh Không, sách cổ và cả lưu truyền dân gian rất hỗn độn giữa các danh: Nguyễn Minh Không, Khổng Minh Không, Dương Không Lộ, Không Lộ thiền sư... Có thuyết nói là hai người, có thuyết nói là một mà mang các tên khác nhau. Có thuyết đề cập Minh Không là Quốc sư chữa bệnh cho vua, lại cũng có thể là ông tổ nghề đúc đồng, dùng thần thông lấy đồng từ Trung Quốc về, lại cũng có thể là ông tổ của một loạt chùa vùng Nam Định - Thái Bình.
Dù trong thuyết nào thì Minh Không - Không Lộ cũng có tên tuổi và năm sinh năm mất tương đối rõ ràng.
Còn Từ Đạo Hạnh không bị nhầm lẫn với ai, và cá nhân tôi cảm thấy tính "huyền bí" của Từ Đạo Hạnh mạnh hơn. Đặc biệt là về huyền thoại Hoá thân của ông. Ông không chết, mà chỉ hoá từ kiếp Thánh sang kiếp Vua, và người ta tin rằng khi kiếp Vua hết, ông lại hoá trở về kiếp Phật. Vì thế trong chùa Thầy thờ cả ba kiếp của ông, với kiếp Phật ở giữa, là kiếp quan trọng nhất và cũng là kiếp trường tồn.
Như thế, với tâm linh dân gian, tôi thấy tính Bất tử của Từ Đạo Hạnh rõ ràng hơn. Vì vậy tôi đã chọn Từ Đạo Hạnh khi xét đến các vị Thánh hộ trì Thăng Long trong bài viết này.
Hồng Hà - Tản Viên, long mạch của đất Thăng Long
Thăng Long
Khi viết bài này, tôi có ý nghĩ thêm một chút.
Vùng đất này gắn với chữ Long từ lâu đời rồi. Trước đó bên kia sông là Long Uyên, tức vực rồng, (có thể do kiêng huý Đường Thái Tổ là Lý Uyên) rồi đổi sang Long Biên, nghĩa là rồng lượn xung quanh, và đất Long Đỗ là rốn rồng trên núi Nùng.
Như thế, trong hàng trăm năm, con Rồng đó vẫn bị giam hãm. Đầu tiên là nằm dưới vực sâu, sau lượn trên sông, cuối cùng lên đến núi là hết. Nhưng ngay cả khi là Long Đỗ, thì cũng bị Cao Biền xây cái thành Đại La - nghĩa là cái Lưới lớn - vây bọc xung quanh giam giữ. Con rồng thiêng ấy bao thế kỉ phải nằm yên.
Đến khi Lý Thái Tổ dời đô, đã phá bỏ cái lưới kia, mà cho con rồng bay lên, mà lên trời thực sự, và có một Thăng Long đến ngày nay.
Tôi chưa được nghe về Ngũ bất diệt bao giờ, nên không dám nói về điều này. Theo tôi nghĩ, khái niệm "điện thần Việt Nam" gồm bao nhiêu vị thần thì cũng tuỳ nơi, tuỳ phong tục. Nếu như thống kê thành hoàng ở đồng bằng Bắc Bộ thì cũng vài trăm vị rồi.
Tứ Bất tử được lưu truyền trong dân gian, và được ghi vào trong cuốn Hội Chân Biên và in ấn từ hơn trăm năm trước, nên trở thành quen thuộc với tất cả mọi người. Cuốn đó viết về các Thần chính của Việt Nam, chỉ có 27 vị thôi (tôi cũng chưa đọc nên không rõ là các vị nào).
Về 5 vị "bất diệt" mà bạn kể, tôi thấy có 3 vị đầu tiên vốn đã được thờ chung với nhau từ lâu, gọi là Lý triều Tam Thánh tổ, tượng thờ được làm thành bộ ba với nhau như chùa Lý Quốc sư, chùa La Cả, chùa Thầy, nghĩa là khá gắn kết. Hai vị đưa thêm, thì có Thánh Bối thuộc đời Trần, dù sao cũng gần gũi với ba vị trên vì cùng là người tu hành theo Phật, lại có màu sắc Đạo giáo, được thờ ở chùa. Riêng việc ghép Thánh Trần vào chỗ của bốn vị sư, cá nhân tôi thấy có hơi gượng ép chăng? Trần Hưng Đạo thì được tôn sùng còn hơn cả bốn vị kia nhiều, nhưng có lẽ không thống nhất lắm. Và tôn phong này có lẽ cũng không phổ biến.
Tuy nhiên, dân gian luôn có lý của dân gian, mà ở đây chắc tôi không thể hiểu hết được.
Tứ Bất tử được lưu truyền trong dân gian, và được ghi vào trong cuốn Hội Chân Biên và in ấn từ hơn trăm năm trước, nên trở thành quen thuộc với tất cả mọi người. Cuốn đó viết về các Thần chính của Việt Nam, chỉ có 27 vị thôi (tôi cũng chưa đọc nên không rõ là các vị nào).
Về 5 vị "bất diệt" mà bạn kể, tôi thấy có 3 vị đầu tiên vốn đã được thờ chung với nhau từ lâu, gọi là Lý triều Tam Thánh tổ, tượng thờ được làm thành bộ ba với nhau như chùa Lý Quốc sư, chùa La Cả, chùa Thầy, nghĩa là khá gắn kết. Hai vị đưa thêm, thì có Thánh Bối thuộc đời Trần, dù sao cũng gần gũi với ba vị trên vì cùng là người tu hành theo Phật, lại có màu sắc Đạo giáo, được thờ ở chùa. Riêng việc ghép Thánh Trần vào chỗ của bốn vị sư, cá nhân tôi thấy có hơi gượng ép chăng? Trần Hưng Đạo thì được tôn sùng còn hơn cả bốn vị kia nhiều, nhưng có lẽ không thống nhất lắm. Và tôn phong này có lẽ cũng không phổ biến.
Tuy nhiên, dân gian luôn có lý của dân gian, mà ở đây chắc tôi không thể hiểu hết được.
Quy mô thành Thăng Long
Bản đồ trên lấy Hoàng thành (màu vàng) là Thành Hà Nội đời Nguyễn. Các tài liệu đều cho rằng Hoàng thành thời Lý - Trần - Lê rộng hơn thế về cả ba phía. Trong Hoàng thành, chính giữa là điện Càn Nguyên dựng trên núi Long Đỗ. Hoàng thành mở bốn cửa là Đại Hưng, Tường Phù, Diệu Đức, Quảng Phúc.
Bao quanh Hoàng thành là Kinh thành, hoặc La thành. Trong sử chỉ từng đề cập đến 5 cửa của Kinh thành là: cửa Triều Đông ở chỗ dốc Hoè Nhai bây giờ, cửa Tây Dương là Cầu Giấy bây giờ, cửa Trường Quảng là ô Chợ Dừa bây giờ, cửa Nam là ở nút Kim Liên hoặc cuối Bà Triệu bây giờ, cửa Vạn Xuân ở Đông Mác bây giờ. Nhưng có thể còn nhiều cửa khác nữa, đặc biệt là cửa thông ra sông Hồng.
Từ sông Hồng có sông Tô Lịch chảy xuyên vào thành rồi lại ra khỏi thành ở chỗ hồ Trúc Bạch, lại có lối thông từ sông Hồng vào hồ Lục Thuỷ (hồ Gươm). Mùa lũ nước sông có thể tràn vào thành gây ngập khắp nơi.
Người ta nói rất nhiều đến Tứ Trấn Thăng Long là bốn ngôi đền ở bốn phía, tuy nhiên chúng không phải chủ ý ban đầu của các vua Lý, mà có lẽ đời sau "nâng tầm" lên:
- Đền Bạch Mã hướng Đông: là ngôi đền cổ do Cao Biền dựng, có từ trước thành Thăng Long.
- Đền Trấn Vũ hướng Bắc: người ta nói là Lý Thái Tổ dựng, nhưng tôi nghi ngờ điều này vì nhiều nguyên nhân sẽ viết sau. Lai lịch ngôi đền này không rõ ràng, năm dựng cũng không rõ, thờ một vị thần rất Tàu.
- Đền Voi Phục hướng Tây: dựng đời Lý Thái Tông hoặc Lý Thánh Tông, cũng không cụ thể.
- Đền Kim Liên hướng Nam: mãi đến đời Lê mới thấy "xuất hiện" trong ghi chép, trước đó không ai biết lai lịch có hay không, như thế nào.
Hơn nữa bốn ngôi đền này quay hướng rất lộn xộn, mỗi cái một kiểu. Đền Trấn Vũ thực ra không phải là đền mà là Đạo quán, lại còn nằm ngoài vòng Kinh thành, cách sông Tô Lịch. Những điều này khiến tôi cho rằng cái truyền thống về Thăng Long tứ trấn chỉ có từ đời Lê, chứ không phải từ đời Lý.
Những dấu xưa
Dấu tích Nam Giao
Đàn Xã Tắc
Đền Đồng Cổ
Đền Hoằng Thánh
Đời Lý Thái Tông để lại một công trình mà người ta còn nhắc mãi đến ngày nay, đó là chùa Một Cột. Cái này thì người ta nói nhiều quá rồi, viết sơ qua chứ không lại nhàm.
Năm 1049, Lý Thái Tông nằm mơ thấy Quan Thế Âm dắt lên đài sen, cảm thấy điềm báo không tốt. Sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa hình đài sen để thờ Quan Âm, dựng chùa lớn để thờ Phật. Thế là chùa Diên Hựu (nghĩa là kéo dài sự phù hộ, kéo dài cõi phúc), và đài Liên Hoa được dựng. Đài Liên hoa chỉ là một bộ phận của chùa, nhưng giờ đây lại thường được gọi là chùa Một Cột.
Tương truyền rằng năm 1954, trước khi rút đi, quân Pháp nổ mìn phá huỷ đài Liên Hoa, và năm 1955 mới dựng lại như thấy ngày nay, nhỏ hơn nguyên bản một chút. Cây cột chính giữa đỡ đài làm bằng đá, phía trên toàn bộ bằng gỗ, lợp ngói, trong để tượng Quan Âm, chỉ một người quỳ là hết chỗ.
Ngôi "chùa" nguyên bản 850 tuổi (??) những năm 1900, và ngôi chùa hiện tại, mới 50 năm tuổi.
....
Quán Trấn Vũ
Lý Thánh Tông
Sau thời Lý Thái Tông phong thần, dựng đền, Lý Thánh Tông nối ngôi cũng cho xây dựng nhiều công trình, mà vang danh đến nghìn năm sau làVăn Miếu (1070).
Lý Thánh Tông dù sùng Phật giáo, nhưng cũng chuyển hướng trong cai trị sang trọng dụng Nho học. Không chỉ thờ Phật như ông nội, thờ thêm các Thần linh mang màu sắc Đạo giáo như cha, vua chính thức tôn thờ vị Thánh triết của Trung Hoa là Khổng Tử, đặt tại phía Nam của hoàng thành.
Cũng tại khu vực Văn Miếu, học theo Trung Quốc, đến đời sau là Lý Nhân Tông đã lập Quốc Tử Giám (1076), để ngày nay khắp mọi nơi tung hô là Đại học đầu tiên của nước ta. Đại học chuyên giảng dạy về Văn thơ, Lịch sử Tàu, Triết học Tàu, và hoàn toàn bằng chữ của Tàu. Bốn trăm năm sau, những tấm bia Tiến sĩ được dựng lên tại đây.
Những gì mà Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã có là di sản rất lớn, đến nỗi kể cả khi triều Nguyễn dời đô vào Huế, và cố tình triệt hạ tầm vóc của Thăng Long, thì Văn Miếu Huế cũng vẫn rất tầm thường nhỏ bé, kém xa so với Văn Miếu Thăng Long.
(Viết về Văn Miếu, lại phải có những bài viết riêng, đầy đặn hơn, công phu hơn. Ở đây chỉ là liệt kê một số dấu thời Lý Thánh Tông với Thăng Long mà thôi.)
Cổng Văn Miếu những năm 1900, chỉ riêng toà cổng này đã thể hiện tầm vóc lớn hơn Văn Miếu Huế, Văn Miếu Hưng Yên, Mao Điền.
Lý Thánh Tông dù sùng Phật giáo, nhưng cũng chuyển hướng trong cai trị sang trọng dụng Nho học. Không chỉ thờ Phật như ông nội, thờ thêm các Thần linh mang màu sắc Đạo giáo như cha, vua chính thức tôn thờ vị Thánh triết của Trung Hoa là Khổng Tử, đặt tại phía Nam của hoàng thành.
Cũng tại khu vực Văn Miếu, học theo Trung Quốc, đến đời sau là Lý Nhân Tông đã lập Quốc Tử Giám (1076), để ngày nay khắp mọi nơi tung hô là Đại học đầu tiên của nước ta. Đại học chuyên giảng dạy về Văn thơ, Lịch sử Tàu, Triết học Tàu, và hoàn toàn bằng chữ của Tàu. Bốn trăm năm sau, những tấm bia Tiến sĩ được dựng lên tại đây.
Những gì mà Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã có là di sản rất lớn, đến nỗi kể cả khi triều Nguyễn dời đô vào Huế, và cố tình triệt hạ tầm vóc của Thăng Long, thì Văn Miếu Huế cũng vẫn rất tầm thường nhỏ bé, kém xa so với Văn Miếu Thăng Long.
(Viết về Văn Miếu, lại phải có những bài viết riêng, đầy đặn hơn, công phu hơn. Ở đây chỉ là liệt kê một số dấu thời Lý Thánh Tông với Thăng Long mà thôi.)
Cổng Văn Miếu những năm 1900, chỉ riêng toà cổng này đã thể hiện tầm vóc lớn hơn Văn Miếu Huế, Văn Miếu Hưng Yên, Mao Điền.
Tháp Báo Thiên
Đời Lý Thánh Tông xây dựng một công trình để lại nhiều huyền thoại nhất, thậm chí còn liên quan đến cả một số sự kiện chính trị - xã hội gần đây, đó là Chùa - tháp Báo Thiên.
Hai năm sau khi lên ngôi, năm 1056, Lý Thánh Tông cho dựng ngôi chùa lớn nhất của Thăng Long, và cũng là lớn nhất toàn quốc: chùa Sùng Khánh Báo Thiên, đúc chuông nặng 1,2 vạn cân (chắc khoảng hơn 4 tấn) đặt trong chùa. Sang năm sau lại cho xây tháp Đại Thắng Tư Thiên 12 tầng, cao "vài chục trượng". Về sau để ngắn gọn hay gọi tắt là chùa Báo Thiên và tháp Báo Thiên.
Tháp chính xác cao bao nhiêu không rõ. Cứ coi như hai chục trượng, thì cũng hơn 60m rồi, gần gấp đôi Cột cờ Hà Nội ngày nay. Tầng trên cùng của tháp được dát đồng có ba chữ Đáo lý thiên (đến tận trời). Nhiều chỗ viết đúc bằng đồng, tôi nghĩ không thể làm được ở độ cao thế. Do đó tháp (hay đỉnh tháp?) được coi là một trong An Nam tứ đại khí, bốn báu vật lớn của nước Nam: gồm Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh. Bốn thứ đều to lớn làm bằng đồng, tuy nhiên không phải cùng lúc, mà từ cái đầu đến cái cuối cách nhau hơn một trăm năm.
Chùa và tháp Báo Thiên là chùa lớn nhất cho đến hết triều Trần. Khi giặc Minh xâm lược đã phá tháp Báo Thiên (và cả tứ đại khí). Đến triều Lê và đầu Nguyễn vẫn còn chùa, nhưng khi Hà Nội thất thủ, binh lửa tràn lan thì chùa bị bỏ hoang, cho nên khi Pháp vào thì dùng đất đó xây Nhà thờ Lớn Hà Nội.
Ngày nay, tất cả những gì còn lại của chùa Báo Thiên xa xưa chỉ còn lại một chiếc miệng giếng bằng đá nay để trước hang đá sau Nhà thờ Lớn. Miệng giếng gồm hai thớt đá liền khối lớn tạc hoa văn có lẽ của triều Lê, trên miệng còn nhiều vết hằn của dây gàu qua hàng trăm năm. Giếng xưa đã bị lấp lâu rồi, chỉ còn miệng giếng người ta mang bỏ sang đây.
Hai năm sau khi lên ngôi, năm 1056, Lý Thánh Tông cho dựng ngôi chùa lớn nhất của Thăng Long, và cũng là lớn nhất toàn quốc: chùa Sùng Khánh Báo Thiên, đúc chuông nặng 1,2 vạn cân (chắc khoảng hơn 4 tấn) đặt trong chùa. Sang năm sau lại cho xây tháp Đại Thắng Tư Thiên 12 tầng, cao "vài chục trượng". Về sau để ngắn gọn hay gọi tắt là chùa Báo Thiên và tháp Báo Thiên.
Tháp chính xác cao bao nhiêu không rõ. Cứ coi như hai chục trượng, thì cũng hơn 60m rồi, gần gấp đôi Cột cờ Hà Nội ngày nay. Tầng trên cùng của tháp được dát đồng có ba chữ Đáo lý thiên (đến tận trời). Nhiều chỗ viết đúc bằng đồng, tôi nghĩ không thể làm được ở độ cao thế. Do đó tháp (hay đỉnh tháp?) được coi là một trong An Nam tứ đại khí, bốn báu vật lớn của nước Nam: gồm Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh. Bốn thứ đều to lớn làm bằng đồng, tuy nhiên không phải cùng lúc, mà từ cái đầu đến cái cuối cách nhau hơn một trăm năm.
Chùa và tháp Báo Thiên là chùa lớn nhất cho đến hết triều Trần. Khi giặc Minh xâm lược đã phá tháp Báo Thiên (và cả tứ đại khí). Đến triều Lê và đầu Nguyễn vẫn còn chùa, nhưng khi Hà Nội thất thủ, binh lửa tràn lan thì chùa bị bỏ hoang, cho nên khi Pháp vào thì dùng đất đó xây Nhà thờ Lớn Hà Nội.
Ngày nay, tất cả những gì còn lại của chùa Báo Thiên xa xưa chỉ còn lại một chiếc miệng giếng bằng đá nay để trước hang đá sau Nhà thờ Lớn. Miệng giếng gồm hai thớt đá liền khối lớn tạc hoa văn có lẽ của triều Lê, trên miệng còn nhiều vết hằn của dây gàu qua hàng trăm năm. Giếng xưa đã bị lấp lâu rồi, chỉ còn miệng giếng người ta mang bỏ sang đây.
Đền Voi Phục
Ngôi đền Trấn Tây - Voi Phục có một lai lịch không rõ ràng, và vị thần được thờ trong đó cũng vậy. Người ta đều viết đền thờ thần Linh Lang, nhưng Linh Lang là ai? mỗi chỗ viết một kiểu.
- Linh Lang là hoàng tử Hoằng Chân, sống tại vùng Thủ Lệ.
- Linh Lang con của Lý Thái Tông, hoặc Lý Thánh Tông (?).
- Đền thờ do Lý Thái Tông hoặc Lý Thánh Tông sai dựng (?)
- Hoàng tử Hoằng Chân có công đánh giặc Tống, trở về Thủ Lệ hoá thành thuồng luồng lặn xuống hồ; hoặc là hi sinh trên sông Như Nguyệt (?), nên được phong làm thần.
Thoáng qua đã thấy vô lý: không lẽ cha dựng đền thờ con? Hơn nữa trận chiến chống Tống (1075 - 1076) xảy ra vào đời Lý Nhân Tông, khi đó cả Thái Tông, Thánh Tông đều đã chết rồi, thế thì làm sao Hoằng Chân đã chết trận mà dựng đền thờ được?
Có nhiều người đã cố giải thích chuyện này. Linh Lang thực ra là vị Thuỷ thần vùng sông nước suốt một dải đồng bằng sông Hồng, được cư dân ven sông tôn thờ từ rất lâu đời. Đến đời Lý Thái Tông hoặc Thánh Tông dựng đền thờ ở phía Tây, khu vực nhiều đầm hồ, lại thông với hồ Tây.
Hoàng tử Hoằng Chân là con của Lý Thái Tông, em Lý Thánh Tông từng sống ở đây, là một tướng giỏi về đánh thuỷ chiến, cùng Chiêu Văn thống lĩnh cánh quân thuỷ trong trận chiến với quân Tống trên sông Như Nguyệt. Hoằng Chân hi sinh, được người dân tôn thờ và đồng nhất với thần Linh Lang, coi Hoằng Chân là một hoá thân của Linh Lang. Các truyền thuyết kì quái về Hoằng Chân được dựng lên sau đó để thần thánh hoá.
Đền thờ Linh Lang có suốt một dải đến tận Hải Phòng. Khu vực nhà cũ của Hoằng Chân - Linh Lang được gọi là Thủ Lệ, nghĩa là nơi giữ gìn lệ cũ thờ thần Linh Lang.
Đền thờ thần có hai con voi chầu ở hai bên, nên dân gian goi là đền Voi Phục, được coi là Trấn Tây của Thăng Long, ảnh chụp từ năm 1883.
(Cũng nói thêm là ở Thuỵ Khuê cũng có một đền Voi Phục, thờ Uy Linh Lang, lại là vị thần đời Trần, chứ không phải Linh Lang)
- Linh Lang là hoàng tử Hoằng Chân, sống tại vùng Thủ Lệ.
- Linh Lang con của Lý Thái Tông, hoặc Lý Thánh Tông (?).
- Đền thờ do Lý Thái Tông hoặc Lý Thánh Tông sai dựng (?)
- Hoàng tử Hoằng Chân có công đánh giặc Tống, trở về Thủ Lệ hoá thành thuồng luồng lặn xuống hồ; hoặc là hi sinh trên sông Như Nguyệt (?), nên được phong làm thần.
Thoáng qua đã thấy vô lý: không lẽ cha dựng đền thờ con? Hơn nữa trận chiến chống Tống (1075 - 1076) xảy ra vào đời Lý Nhân Tông, khi đó cả Thái Tông, Thánh Tông đều đã chết rồi, thế thì làm sao Hoằng Chân đã chết trận mà dựng đền thờ được?
Có nhiều người đã cố giải thích chuyện này. Linh Lang thực ra là vị Thuỷ thần vùng sông nước suốt một dải đồng bằng sông Hồng, được cư dân ven sông tôn thờ từ rất lâu đời. Đến đời Lý Thái Tông hoặc Thánh Tông dựng đền thờ ở phía Tây, khu vực nhiều đầm hồ, lại thông với hồ Tây.
Hoàng tử Hoằng Chân là con của Lý Thái Tông, em Lý Thánh Tông từng sống ở đây, là một tướng giỏi về đánh thuỷ chiến, cùng Chiêu Văn thống lĩnh cánh quân thuỷ trong trận chiến với quân Tống trên sông Như Nguyệt. Hoằng Chân hi sinh, được người dân tôn thờ và đồng nhất với thần Linh Lang, coi Hoằng Chân là một hoá thân của Linh Lang. Các truyền thuyết kì quái về Hoằng Chân được dựng lên sau đó để thần thánh hoá.
Đền thờ Linh Lang có suốt một dải đến tận Hải Phòng. Khu vực nhà cũ của Hoằng Chân - Linh Lang được gọi là Thủ Lệ, nghĩa là nơi giữ gìn lệ cũ thờ thần Linh Lang.
Đền thờ thần có hai con voi chầu ở hai bên, nên dân gian goi là đền Voi Phục, được coi là Trấn Tây của Thăng Long, ảnh chụp từ năm 1883.
(Cũng nói thêm là ở Thuỵ Khuê cũng có một đền Voi Phục, thờ Uy Linh Lang, lại là vị thần đời Trần, chứ không phải Linh Lang)
Thờ thần Chămpa
Lý Thánh Tông sau khi đánh Chiêm Thành đã đem về Thăng Long một vị thần rất mới với người Việt: đó là vị nữ thần Chămpa.
Sử sách chép rằng vua khi đi đánh Chiêm Thành, qua cửa biển sóng to gió lớn, đêm được vị nữ thần báo mộng, xưng là chủ của đất này. Vua thờ cúng nữ thần đó thì sóng yên gió lặng. Đánh thắng, bắt được vua Chiêm là Chế Củ, Lý Thánh Tông lấy sạch kho tàng Chiêm Thành, lại bắt thêm 5 vạn người Champa về làm nô lệ riêng cho hoàng gia. Vua về Thăng Long bèn lập đền thờ vị nữ thần Chămpa đó, đầu tiên gọi là Hậu Thổ Phu nhân, còn gọi là Nam Quốc Chủ đại Địa thần. Chữ Nam quốc là để chỉ nước phía Nam của Đại Việt, tức Chiêm Thành. Đền thờ ở làng Yên Lãng cạnh sông Tô Lịch, phía Nam, ngoại thành.
Đến đời Trần tôn phong là Ứng thiên Hoá dục Nguyên trung Hậu Thổ Địa kỳ Nguyên quân.
Nhiều người cho rằng vị Nữ thần này chính là Bà mẹ xứ sở Ponagar của người Chăm. Lý Thánh Tông đem về lập đền thờ là một kiểu xâm lấn tâm linh, tất cả các thần của các vùng đất đều phải về cùng chỗ với vua.
Ngày nay đền đó trở thành đình Ứng Thiên, cuối phố Láng Hạ. Và cũng vì Nữ thần là Thần đất, cho nên khi tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển, thì Nữ thần này cũng được coi là Mẫu Địa.
Sử sách chép rằng vua khi đi đánh Chiêm Thành, qua cửa biển sóng to gió lớn, đêm được vị nữ thần báo mộng, xưng là chủ của đất này. Vua thờ cúng nữ thần đó thì sóng yên gió lặng. Đánh thắng, bắt được vua Chiêm là Chế Củ, Lý Thánh Tông lấy sạch kho tàng Chiêm Thành, lại bắt thêm 5 vạn người Champa về làm nô lệ riêng cho hoàng gia. Vua về Thăng Long bèn lập đền thờ vị nữ thần Chămpa đó, đầu tiên gọi là Hậu Thổ Phu nhân, còn gọi là Nam Quốc Chủ đại Địa thần. Chữ Nam quốc là để chỉ nước phía Nam của Đại Việt, tức Chiêm Thành. Đền thờ ở làng Yên Lãng cạnh sông Tô Lịch, phía Nam, ngoại thành.
Đến đời Trần tôn phong là Ứng thiên Hoá dục Nguyên trung Hậu Thổ Địa kỳ Nguyên quân.
Nhiều người cho rằng vị Nữ thần này chính là Bà mẹ xứ sở Ponagar của người Chăm. Lý Thánh Tông đem về lập đền thờ là một kiểu xâm lấn tâm linh, tất cả các thần của các vùng đất đều phải về cùng chỗ với vua.
Ngày nay đền đó trở thành đình Ứng Thiên, cuối phố Láng Hạ. Và cũng vì Nữ thần là Thần đất, cho nên khi tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển, thì Nữ thần này cũng được coi là Mẫu Địa.
Con rồng Thăng Long
Những người Chiêm Thành bị bắt về Thăng Long được giao cho việc thổ mộc, xây dựng các công trình cho Hoàng gia. Chính những người thợ tài hoa này đã khéo léo kết hợp giữa nghệ thuật điêu khắc Champa và Đại Việt, để tạo nên những tác phẩm rất đẹp, rất riêng cho triều Lý, không đâu có và cũng không lặp lại ở các triều đại sau.
Hình tượng con rồng đời Lý độc đáo rất riêng chỉ có từ sau đời Lý Thái Tông - Lý Thánh Tông, và là một biểu tượng đẹp. Cho đến về sau này, khi con rồng của Việt Nam có dáng vẻ dần giống rồng Trung Hoa (triều Nguyễn thì y hệt, chả khác gì), thì mới thấy con rồng đời Lý thật độc đáo.
Không chỉ con rồng, mà con phượng, con sư tử, sóc đá đời Lý cũng độc đáo, là tác phẩm kết hợp giữa văn hoá Trung - Việt - Chăm. Ngày nay các tác phẩm đó không còn nhiều, nhưng cũng vẫn là những đỉnh cao nghệ thuật tạo hình. Hai chữ Thăng Long có lẽ gắn liền với con rồng đời Lý hơn là bất cứ con rồng nào khác.
Con rồng đời Lý nguyên bản trên cột đá chùa Dạm
Và hình tượng con rồng đời Lý trên con đường gốm sứ, vị trí cầu Chương Dương
Hình tượng con rồng đời Lý độc đáo rất riêng chỉ có từ sau đời Lý Thái Tông - Lý Thánh Tông, và là một biểu tượng đẹp. Cho đến về sau này, khi con rồng của Việt Nam có dáng vẻ dần giống rồng Trung Hoa (triều Nguyễn thì y hệt, chả khác gì), thì mới thấy con rồng đời Lý thật độc đáo.
Không chỉ con rồng, mà con phượng, con sư tử, sóc đá đời Lý cũng độc đáo, là tác phẩm kết hợp giữa văn hoá Trung - Việt - Chăm. Ngày nay các tác phẩm đó không còn nhiều, nhưng cũng vẫn là những đỉnh cao nghệ thuật tạo hình. Hai chữ Thăng Long có lẽ gắn liền với con rồng đời Lý hơn là bất cứ con rồng nào khác.
Con rồng đời Lý nguyên bản trên cột đá chùa Dạm
Và hình tượng con rồng đời Lý trên con đường gốm sứ, vị trí cầu Chương Dương
Thái hậu Ỷ Lan
Ỷ Lan được thờ ở nhiều nơi. Trong nội thành là ở đình Yên Thái ngõ Yên Thái.
Đền chính của Thái hậu Ỷ Lan tại quê bà, nằm ở ngoại thành Thăng Long xưa, nay thuộc huyện Gia Lâm. Đền tuy bằng gạch đơn sơ nhưng khá đẹp. Cạnh đền là chùa, nơi xưa kia bà Ỷ Lan đã cho xây dựng để sám hối.
Trong khu vực đền - chùa, còn lại ba di vật từ thời Lý, cùng thời với Ỷ Lan. Đó là đôi sư tử đá và một bệ thành bậc bằng đá chạm con sóc, với con phượng ở thành. Nét điêu khắc mang đậm dấu ấn kết hợp Việt - Champa.
Thánh Chúa và Thánh Đức
Chuyện cầu con của Lý Thánh Tông còn liên quan đến hai ngôi chùa trên đất Hà Nội (nhưng là ngoại thành Thăng Long).
Khi có Ỷ Lan rồi, Lý Thánh Tông vẫn chưa có con, thường đi cầu tự ở ngôi chùa phía Tây thành Thăng Long. Khi không đến được thì vua sai nội thị là Nguyễn Bông thường xuyên đến đó khẩn cầu. Truyền thuyết kể rằng có pháp sư là Đại Điên bảo với Bông là có thể làm thuật để Bông thoát xác đầu thai làm con vua. Việc bị lộ, Nguyễn Bông bị chém đầu ở ngoài cổng chùa, còn Đại Điên thì không thấy nói đến nữa, nhưng lại xuất hiện trong truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh sau này.
Đến khi Ỷ Lan sinh được con trai, vua mừng rỡ sai đổi tên chùa thành Thánh Chúa, dọc đường từ chùa Thánh Chúa về hoàng thành lại cho dựng chùa Thánh Đức, ngụ ý mong cho con mình sẽ thành vị vua tài giỏi và đức độ. Điều mong ước đó trở thành hiện thực, thái tử Càn Đức sau này là vua Lý Nhân Tông là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, là vị vua tài giỏi anh minh bậc nhất.
Ngày nay chùa Thánh Chúa nằm lọt trong khuôn viên trường ĐH Sư Phạm. Còn chùa Thánh Đức thì chính là chùa Hà nổi tiếng về cầu duyên, nằm cuối phố Chùa Hà.
Cổng chùa Thánh Chúa
Và chùa Thánh Đức (chùa Hà)
(Có truyền thuyết khác nữa về chùa Hà, nhưng riêng tôi thấy truyền thuyết này hợp lý, lại cũng thật hay)
Khi có Ỷ Lan rồi, Lý Thánh Tông vẫn chưa có con, thường đi cầu tự ở ngôi chùa phía Tây thành Thăng Long. Khi không đến được thì vua sai nội thị là Nguyễn Bông thường xuyên đến đó khẩn cầu. Truyền thuyết kể rằng có pháp sư là Đại Điên bảo với Bông là có thể làm thuật để Bông thoát xác đầu thai làm con vua. Việc bị lộ, Nguyễn Bông bị chém đầu ở ngoài cổng chùa, còn Đại Điên thì không thấy nói đến nữa, nhưng lại xuất hiện trong truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh sau này.
Đến khi Ỷ Lan sinh được con trai, vua mừng rỡ sai đổi tên chùa thành Thánh Chúa, dọc đường từ chùa Thánh Chúa về hoàng thành lại cho dựng chùa Thánh Đức, ngụ ý mong cho con mình sẽ thành vị vua tài giỏi và đức độ. Điều mong ước đó trở thành hiện thực, thái tử Càn Đức sau này là vua Lý Nhân Tông là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, là vị vua tài giỏi anh minh bậc nhất.
Ngày nay chùa Thánh Chúa nằm lọt trong khuôn viên trường ĐH Sư Phạm. Còn chùa Thánh Đức thì chính là chùa Hà nổi tiếng về cầu duyên, nằm cuối phố Chùa Hà.
Cổng chùa Thánh Chúa
Và chùa Thánh Đức (chùa Hà)
(Có truyền thuyết khác nữa về chùa Hà, nhưng riêng tôi thấy truyền thuyết này hợp lý, lại cũng thật hay)
Thập tam trại
Lý Nhân Tông nối ngôi, là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Việt Nam, 56 năm.
Thời đầu, Thái hậu Ỷ Lan cùng Thái uý Lý Thường Kiệt nắm quyền, Đại Việt hùng mạnh đã mang quân sang đánh nhà Tống, phá Ung Châu, Khâm Châu, làm cỏ cả thành Ung Châu. Quân Tống sang đánh nhưng bị chặn lại tại Như Nguyệt rồi rút về. Thăng Long không hề bị thương tổn nào. Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập ở phía nam Thăng Long. Về Văn, đời Lý Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám là trường học quốc gia đầu tiên.
Có truyền thuyết rằng con gái Lý Nhân Tông đi thuyền trên sông Đuống, bị chết đuối. Có người làng Lệ Mật vớt được xác, Lý Nhân Tông ban thưởng bằng cách cho người dân Lệ Mật vào lập 13 trại tại phía Tây của Thăng Long, khi đó còn ít người sinh sống, chỉ có một số quan, lính. Từ đó hình thành nên tên gọi Thập tam trại.
Thập tam trại chính xác gồm những nơi nào không rõ, ngày nay về lễ đình Lệ Mật thì gồm các nơi: Vĩnh Phúc, Liễu Giai, Cống Vị, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Kim Mã, Xuân Biểu, Thủ Lệ, Vạn Phúc, Ngọc Khánh, Đại Yên, Giảng Võ, Cống Yên.
Đình Lệ Mật, nơi thờ thành hoàng làng, cũng là người có công lập ra Thập tam trại.
Thời đầu, Thái hậu Ỷ Lan cùng Thái uý Lý Thường Kiệt nắm quyền, Đại Việt hùng mạnh đã mang quân sang đánh nhà Tống, phá Ung Châu, Khâm Châu, làm cỏ cả thành Ung Châu. Quân Tống sang đánh nhưng bị chặn lại tại Như Nguyệt rồi rút về. Thăng Long không hề bị thương tổn nào. Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập ở phía nam Thăng Long. Về Văn, đời Lý Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám là trường học quốc gia đầu tiên.
Có truyền thuyết rằng con gái Lý Nhân Tông đi thuyền trên sông Đuống, bị chết đuối. Có người làng Lệ Mật vớt được xác, Lý Nhân Tông ban thưởng bằng cách cho người dân Lệ Mật vào lập 13 trại tại phía Tây của Thăng Long, khi đó còn ít người sinh sống, chỉ có một số quan, lính. Từ đó hình thành nên tên gọi Thập tam trại.
Thập tam trại chính xác gồm những nơi nào không rõ, ngày nay về lễ đình Lệ Mật thì gồm các nơi: Vĩnh Phúc, Liễu Giai, Cống Vị, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Kim Mã, Xuân Biểu, Thủ Lệ, Vạn Phúc, Ngọc Khánh, Đại Yên, Giảng Võ, Cống Yên.
Đình Lệ Mật, nơi thờ thành hoàng làng, cũng là người có công lập ra Thập tam trại.
Lý Thường Kiệt
Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập tại quê nhà ông là làng An Xá, sau là Cơ Xá, nay thuộc khu vực gần viện Pasteur. Đền gọi là đền Cơ Xá, nằm đầu phố Nguyễn Huy Tự
Tương truyền khi mất Lý Thường Kiệt được chôn ngay trong thành Thăng Long, khu vực đất làng Nam Đồng ngày nay, nơi đó nay là đình Nam Đồng, trên phố Nguyễn Lương Bằng.
Ngoài ra còn đình Phúc Xá, đền Tiên Thiên cũng thờ Lý Thường Kiệt.
Là vì bên cạnh hầu hết các tài liệu đều ghi là quân Pháp phá huỷ chùa Một Cột, vẫn có nguồn tin cho rằng không phải thế. Điều nghi ngờ đó cũng có thể có lý, khi mà tôi thấy rằng người Pháp rất cẩn thận lưu giữ các công trình kiến trúc cổ Việt Nam, đặc biệt tại Hà Nội. Trong thư viện của họ còn giữ bản vẽ chi tiết các ngôi chùa ở HN, thiết kế, cấu trúc... một cách tỉ mỉ. Tất cả các tấm bia đều được họ làm bản dập lưu trữ, những việc đó người Việt mình còn không làm nổi. Nhất là phải nhớ lại giai đoạn chính chúng ta đã tiêu huỷ vô số công trình văn hoá của mình thế nào.
Cho đến nay các nguồn tài liệu đều chỉ ghi chung chung là "quân Pháp nổ mìn phá huỷ chùa Một Cột", nhưng phá khi nào, lúc nào, có bằng chứng gì, có ai chứng kiến ... thì hoàn toàn không. Vì vậy tôi cũng không thể khẳng định điều đó (như các báo chí khác) được.
@DUNG_BTT: Cảm ơn bạn, tôi cũng chỉ làm điều gì mình thích, và viết ra những điều mình biết để chia sẻ với mọi người, kẻo rồi chính mình lại quên đi thôi. Gặp tôi ngoài đời thì là một người chán ngắt ấy mà.
Lăng Phùng Hưng
Nhân nói đến phần mộ Lý Thường Kiệt được cho rằng nằm trong khu vực đất đình Nam Đồng, không thể bỏ qua một lăng mộ khác cũng nằm giữa Thăng Long, là mộ của Bố Cái Đại vương Phùng Hưng.
Phùng Hưng người làng Đường Lâm, mảnh đất sau này còn có vua Ngô Quyền. Nổi dậy chống lại nhà Đường đô hộ trong khoảng 766 - 790, ông đã có nhiều thành công, vây được quân nhà Đường đóng ở huyện Tống Bình (khu vực Thăng Long sau này), đuổi được quân Đường sang bên kia sông. Sự nghiệp chưa thành thì Phùng Hưng qua đời năm 791, khi mới ngoài 40 tuổi.
Đến nay, có một lăng mộ được nhân dân ngàn năm tôn thờ là mộ của Phùng Hưng, nằm ngay giữa thành Thăng Long. Thực tế là có thể chỉ là lăng thờ tượng trưng, vì sau khi Phùng Hưng mất, quân Đường chiếm lại đất Tống Bình, mà sự trả thù của người Tàu đều không đơn giản, liệu mộ Phùng Hưng nếu chôn ở đây có thể nguyên vẹn được không?
Ngày nay, lăng Phùng Hưng nằm ngay phía sau bến xe Kim Mã, đường vào trên đoạn cuối của phố Giảng Võ.
Phùng Hưng người làng Đường Lâm, mảnh đất sau này còn có vua Ngô Quyền. Nổi dậy chống lại nhà Đường đô hộ trong khoảng 766 - 790, ông đã có nhiều thành công, vây được quân nhà Đường đóng ở huyện Tống Bình (khu vực Thăng Long sau này), đuổi được quân Đường sang bên kia sông. Sự nghiệp chưa thành thì Phùng Hưng qua đời năm 791, khi mới ngoài 40 tuổi.
Đến nay, có một lăng mộ được nhân dân ngàn năm tôn thờ là mộ của Phùng Hưng, nằm ngay giữa thành Thăng Long. Thực tế là có thể chỉ là lăng thờ tượng trưng, vì sau khi Phùng Hưng mất, quân Đường chiếm lại đất Tống Bình, mà sự trả thù của người Tàu đều không đơn giản, liệu mộ Phùng Hưng nếu chôn ở đây có thể nguyên vẹn được không?
Ngày nay, lăng Phùng Hưng nằm ngay phía sau bến xe Kim Mã, đường vào trên đoạn cuối của phố Giảng Võ.
Quốc Tử Giám
Về Võ, chíến dịch đánh Tống và chống Tống thể hiện sức mạnh triều Lý. Về Văn, triều Lý Nhân Tông được đánh dấu bởi việc mở Quốc Tử Giám, trường học Quốc gia đầu tiên. Có một điều thú vị là thời Thánh Tông, năm 1069 đánh thắng Chiêm Thành liền sau đó, năm 1070 lập Văn Miếu; thời Nhân Tông, năm 1075 đánh thắng Tống thì liền sau đó năm 1076 lập Quốc Tử Giám.
Lịch sử ghi công này cho Lý Nhân Tông, nhưng thực ra khi đó vua mới chỉ có 11 tuổi, nào đã biết gì về Võ hay Văn, mà đó là công của Thái hậu nhiếp chính Ỷ Lan, và thái sư Lý Đạo Thành. Trước kia Lý Đạo Thành theo phe Thượng Dương, bị dời vào trấn thủ Nghệ An, nhưng Thái hậu Ỷ Lan bỏ qua chuyện cũ, lại mời ông ra làm Thái sư như cũ. Có thể cho rằng chính ông là người đã hậu thuẫn cho việc mở trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.
Triều đại mà Võ thì có Lý Thường Kiệt, Văn thì có Lý Đạo Thành, lại có bà Thái hậu uyên bác quyết đoán, thì dù là vua bé vẫn cứ hưng thịnh, và Thăng Long ngày càng được xây dựng hoàn thiện, to đẹp.
Lịch sử ghi công này cho Lý Nhân Tông, nhưng thực ra khi đó vua mới chỉ có 11 tuổi, nào đã biết gì về Võ hay Văn, mà đó là công của Thái hậu nhiếp chính Ỷ Lan, và thái sư Lý Đạo Thành. Trước kia Lý Đạo Thành theo phe Thượng Dương, bị dời vào trấn thủ Nghệ An, nhưng Thái hậu Ỷ Lan bỏ qua chuyện cũ, lại mời ông ra làm Thái sư như cũ. Có thể cho rằng chính ông là người đã hậu thuẫn cho việc mở trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.
Triều đại mà Võ thì có Lý Thường Kiệt, Văn thì có Lý Đạo Thành, lại có bà Thái hậu uyên bác quyết đoán, thì dù là vua bé vẫn cứ hưng thịnh, và Thăng Long ngày càng được xây dựng hoàn thiện, to đẹp.
Dâm Đàm
Triều Lý Nhân Tông có vụ án nổi tiếng liên quan đến hồ Tây, tức là vụ án Dâm Đàm.
Ngay từ khi định đô trên đất này, hồ Tây đã là một phần không thể tách rời của thành Thăng Long. Tên hồ đời Lý là Dâm Đàm, tức là đầm mù sương. Ngày nay mỗi ngày có sương, thì cảnh sắc hồ Tây cũng vẫn rất huyền ảo. Hồ lại có tên là đầm Xác cáo, do truyền thuyết xưa đây là nơi Hồ ly tinh đào hang sống, Lạc Long Quân đã giết cáo tinh rồi vứt xác ở đây. Lại còn gọi là hồ Kim Ngưu - Trâu Vàng, theo truyền thuyết Khổng lồ đúc chuông (sẽ nói sau). Đến đời Lê mới gọi là Tây hồ, có lẽ để đối ứng với tên gọi Đông Đô chăng, vì hồ đâu có nằm ở phía Tây của Thăng Long, mà ở phía Bắc.
Với Thăng Long, hồ Tây là thắng cảnh đệ nhất. Nếu sông Cái - Nhĩ Hà là con đường giao thông, lưu thương buôn bán, là cái hào tự nhiên vĩ đại ngăn giặc Bắc, thì hồ Tây là nơi thưởng ngoạn tuyệt vời. Vì thế tại hòn đảo Kim Ngư (Cá vàng) giữa hồ, nhà Lý cho dựng cung Thuý Hoa, bờ bắc còn làm cung Từ Hoa, là nơi vui chơi nghỉ ngơi của các vua Lý. Lúc này con đê chia đôi hồ chưa có, nên đảo Kim Ngư chơi vơi giữa mênh mông sóng nước, bình minh hay hoàng hôn đều rực rỡ cả, chắc hẳn là rất đẹp.
Tại Dâm Đàm, từ đời Lý đã có các địa danh Hồ Khẩu (cửa sông Tô Lịch nối với hồ), Giang Tân (bến sông), Lãng Bạc (bến sóng), Trích Sài (hái củi), Võng Thị (chợ bán lưới)... rồi Nghi Tàm, Nhật Tân,..., những cái tên còn đến ngày hôm nay. Vua chúa từ thời đó đã thường thích đi thuyền trên hồ ngắm cảnh, xem dân gian buôn bán, đánh cá.
Và cũng từ một lần vua đi xem đánh cá mà có vụ án Dâm Đàm.
Ngay từ khi định đô trên đất này, hồ Tây đã là một phần không thể tách rời của thành Thăng Long. Tên hồ đời Lý là Dâm Đàm, tức là đầm mù sương. Ngày nay mỗi ngày có sương, thì cảnh sắc hồ Tây cũng vẫn rất huyền ảo. Hồ lại có tên là đầm Xác cáo, do truyền thuyết xưa đây là nơi Hồ ly tinh đào hang sống, Lạc Long Quân đã giết cáo tinh rồi vứt xác ở đây. Lại còn gọi là hồ Kim Ngưu - Trâu Vàng, theo truyền thuyết Khổng lồ đúc chuông (sẽ nói sau). Đến đời Lê mới gọi là Tây hồ, có lẽ để đối ứng với tên gọi Đông Đô chăng, vì hồ đâu có nằm ở phía Tây của Thăng Long, mà ở phía Bắc.
Với Thăng Long, hồ Tây là thắng cảnh đệ nhất. Nếu sông Cái - Nhĩ Hà là con đường giao thông, lưu thương buôn bán, là cái hào tự nhiên vĩ đại ngăn giặc Bắc, thì hồ Tây là nơi thưởng ngoạn tuyệt vời. Vì thế tại hòn đảo Kim Ngư (Cá vàng) giữa hồ, nhà Lý cho dựng cung Thuý Hoa, bờ bắc còn làm cung Từ Hoa, là nơi vui chơi nghỉ ngơi của các vua Lý. Lúc này con đê chia đôi hồ chưa có, nên đảo Kim Ngư chơi vơi giữa mênh mông sóng nước, bình minh hay hoàng hôn đều rực rỡ cả, chắc hẳn là rất đẹp.
Tại Dâm Đàm, từ đời Lý đã có các địa danh Hồ Khẩu (cửa sông Tô Lịch nối với hồ), Giang Tân (bến sông), Lãng Bạc (bến sóng), Trích Sài (hái củi), Võng Thị (chợ bán lưới)... rồi Nghi Tàm, Nhật Tân,..., những cái tên còn đến ngày hôm nay. Vua chúa từ thời đó đã thường thích đi thuyền trên hồ ngắm cảnh, xem dân gian buôn bán, đánh cá.
Và cũng từ một lần vua đi xem đánh cá mà có vụ án Dâm Đàm.
Lê Văn Thịnh
DUNG_BTT
Thế nhưng theo em được biết thì con Rồng Đá này lại tượng trưng cho nhà vua vì nghe lời xiểm nịnh nên bức hại trung thần, sau đó dằn vặt bản thân vì "...một tai thông, một tai đặc..." thể hiện rõ nét trên tượng. Đặc điểm khác nữa là con rồng này có năm móng, tượng trưng cho Vua mà thôi.
Bác Chitto giảng giải hộ cái...
Chuông Quy Điền
Lý Thần Tông và Từ Đạo Hạnh
Lý Nhân Tông trị vì lâu, nhưng dù lập đến ba bà Hoàng hậu, mà vẫn không có con, phải lấy con trai của em ruột làm Thái tử. Vị thái tử này lại liên quan đến một câu chuyện huyền hoặc nữa tại đất Thăng Long.
Chuyện kể là ở làng Láng, sát ngoài thành Thăng Long, có ông Từ Vinh, vì có hiềm khích, Diên Thành hầu nhờ pháp sư Đại Điên dùng phép giết Từ Vinh (lại là ông Đại Điên trong giai thoại Nguyễn Bông muốn đầu thai). Con trai Từ Vinh là Từ Đạo Hạnh quyết tâm đi học pháp thuật để báo thù.
Từ Đạo Hạnh đi học theo Mật tông của Phật giáo, niệm chú điều khiển chư thiên, đánh chết được Đại Điên. Trả thù xong, Từ Đạo Hạnh quay về tu hành tại Sài Sơn, dựng chùa Thiên Phúc (tức là chùa Thầy ngày nay). Bấy giờ Sùng Hiền hầu là em Lý Nhân Tông cũng hiếm muộn, đến cầu con. Từ Đạo Hạnh bèn trút xác tại hang Thánh Hoá ở Sài Sơn, đầu thai vào làm con trai Sùng Hiền hầu, sau lên ngôi là Lý Thần Tông.
Bởi huyền tích này mà Lý Anh Tông, con của Thần Tông cho xây lại chùa Chiêu Thiền (tức chùa Láng) tại nơi Từ Đạo Hạnh tu đầu tiên, chùa Đản Cơ (tức chùa Nền) tại nền nhà Từ Vinh, chùa Thiên Phúc (chùa Thầy) tại Sài Sơn. Ngày nay trong chùa Thầy vẫn còn một toà sen đời Lý, và hai cây cột gỗ được cho là có từ thời Từ Đạo Hạnh. Trong chùa Láng thờ tượng Từ Đạo Hạnh và tượng Lý Thần Tông.
Điều tôi thấy thú vị nhất là hiện nay bên này Tô Lịch có 2 chùa thờ Từ Đạo Hạnh là chùa Láng và chùa Nền, thì bên kia sông Tô Lịch có chùa Duệthờ Đại Điên !!! Đại Điên có công lao gì mà nghìn năm vẫn được thờ phụng, thì tôi chưa tìm hiểu được. Phải chăng đây là sự "cạnh tranh" tâm linh của hai làng ở hai bên bờ sông ???
Chùa Láng, cụ Võ An Ninh chụp năm 1941
Chuyện kể là ở làng Láng, sát ngoài thành Thăng Long, có ông Từ Vinh, vì có hiềm khích, Diên Thành hầu nhờ pháp sư Đại Điên dùng phép giết Từ Vinh (lại là ông Đại Điên trong giai thoại Nguyễn Bông muốn đầu thai). Con trai Từ Vinh là Từ Đạo Hạnh quyết tâm đi học pháp thuật để báo thù.
Từ Đạo Hạnh đi học theo Mật tông của Phật giáo, niệm chú điều khiển chư thiên, đánh chết được Đại Điên. Trả thù xong, Từ Đạo Hạnh quay về tu hành tại Sài Sơn, dựng chùa Thiên Phúc (tức là chùa Thầy ngày nay). Bấy giờ Sùng Hiền hầu là em Lý Nhân Tông cũng hiếm muộn, đến cầu con. Từ Đạo Hạnh bèn trút xác tại hang Thánh Hoá ở Sài Sơn, đầu thai vào làm con trai Sùng Hiền hầu, sau lên ngôi là Lý Thần Tông.
Bởi huyền tích này mà Lý Anh Tông, con của Thần Tông cho xây lại chùa Chiêu Thiền (tức chùa Láng) tại nơi Từ Đạo Hạnh tu đầu tiên, chùa Đản Cơ (tức chùa Nền) tại nền nhà Từ Vinh, chùa Thiên Phúc (chùa Thầy) tại Sài Sơn. Ngày nay trong chùa Thầy vẫn còn một toà sen đời Lý, và hai cây cột gỗ được cho là có từ thời Từ Đạo Hạnh. Trong chùa Láng thờ tượng Từ Đạo Hạnh và tượng Lý Thần Tông.
Điều tôi thấy thú vị nhất là hiện nay bên này Tô Lịch có 2 chùa thờ Từ Đạo Hạnh là chùa Láng và chùa Nền, thì bên kia sông Tô Lịch có chùa Duệthờ Đại Điên !!! Đại Điên có công lao gì mà nghìn năm vẫn được thờ phụng, thì tôi chưa tìm hiểu được. Phải chăng đây là sự "cạnh tranh" tâm linh của hai làng ở hai bên bờ sông ???
Chùa Láng, cụ Võ An Ninh chụp năm 1941
Lý triều Quốc sư
Lý Thần Tông lên ngôi năm 11 tuổi, đến 20 tuổi thì bị bệnh, các thái y đều bó tay. Sau có sư Nguyễn Minh Không (tên thật là Nguyễn Chí Thành, người Ninh Bình) chữa được bệnh cho vua, được phong là Quốc sư. Tuy nhiên vua cũng chỉ sống được đến 23 tuổi thôi, chính sử cũng không ghi là bệnh gì. Do đó Minh Không được tôn là vị thánh chữa bệnh.
Theo truyền thuyết thì khi trước Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Giác Hải ba người đi học đạo cùng nhau, Từ Đạo Hạnh đã hoá hổ để trêu hai người, nên khi đầu thai làm Lý Thần Tông thì cũng bị bệnh hoá hổ, lông lá mọc ra, gào rống như hổ (lại chuyện hoá hổ và đầu thai !!!). Chỉ có Minh Không là người đã từng học đạo cùng mới chữa được. Minh Không có nhiều tài phép, được tôn là ông tổ nghề đúc, và gắn với ông Khổng Minh Không trong truyền thuyết chuông đồng trâu vàng. Sau Minh Không còn được gắn với Không Lộ, tạo thành một hình tượng vừa thiêng liêng vừa hoà trộn lộn xộn khó phân biệt.
Có thể thấy triều Lý với thuyết Tam giáo Đồng nguyên (ba tôn giáo là Nho - Phật - Đạo cùng được trọng) nên các truyền thuyết đều hoà quyện. Những người như Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Đại Điên vừa được coi là các Thiền sư Phật giáo, vừa là Pháp sư Đạo giáo, lại có tước vị thế quyền Nho giáo.
Khi Minh Không mất, rất nhều nơi từ Quảng Ninh đến Ninh Bình, Thái Bình đều tôn thờ làm Thánh tổ của các ngôi chùa. Tại Thăng Long, vua cho lập đền thờ, gọi là đền Lý triều Quốc sư ngay cạnh chùa Báo Thiên. Sau đền chuyển thành chùa, tức là chùa Lý Quốc Sư trên phố Lý Quốc Sưbây giờ.
Ba pho tượng Lý triều Tam Thánh Tổ (sau tượng Phật), với Quốc sư Minh Không ngồi giữa, hai bên là Từ Đạo Hạnh và Giác Hải tại chùa Lý Quốc Sư.
Theo truyền thuyết thì khi trước Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Giác Hải ba người đi học đạo cùng nhau, Từ Đạo Hạnh đã hoá hổ để trêu hai người, nên khi đầu thai làm Lý Thần Tông thì cũng bị bệnh hoá hổ, lông lá mọc ra, gào rống như hổ (lại chuyện hoá hổ và đầu thai !!!). Chỉ có Minh Không là người đã từng học đạo cùng mới chữa được. Minh Không có nhiều tài phép, được tôn là ông tổ nghề đúc, và gắn với ông Khổng Minh Không trong truyền thuyết chuông đồng trâu vàng. Sau Minh Không còn được gắn với Không Lộ, tạo thành một hình tượng vừa thiêng liêng vừa hoà trộn lộn xộn khó phân biệt.
Có thể thấy triều Lý với thuyết Tam giáo Đồng nguyên (ba tôn giáo là Nho - Phật - Đạo cùng được trọng) nên các truyền thuyết đều hoà quyện. Những người như Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Đại Điên vừa được coi là các Thiền sư Phật giáo, vừa là Pháp sư Đạo giáo, lại có tước vị thế quyền Nho giáo.
Khi Minh Không mất, rất nhều nơi từ Quảng Ninh đến Ninh Bình, Thái Bình đều tôn thờ làm Thánh tổ của các ngôi chùa. Tại Thăng Long, vua cho lập đền thờ, gọi là đền Lý triều Quốc sư ngay cạnh chùa Báo Thiên. Sau đền chuyển thành chùa, tức là chùa Lý Quốc Sư trên phố Lý Quốc Sưbây giờ.
Ba pho tượng Lý triều Tam Thánh Tổ (sau tượng Phật), với Quốc sư Minh Không ngồi giữa, hai bên là Từ Đạo Hạnh và Giác Hải tại chùa Lý Quốc Sư.
Lý Anh Tông
Lý Cao Tông
Lý Anh Tông là vị vua anh minh cuối cùng của triều Lý. Con trai cả của vua thì tồi bại nên bị phế làm dân thường, con thứ hai được lập làm vua, là Lý Cao Tông khi mới 3 tuổi. Tô Hiến Thành mất đi rồi, vua lớn lên không làm được gì cho Đại Việt, chỉ chuyên chơi bời hoang phí, xây dựng cung thất đền đài, triều đình cũng suy đồi, nên trộm giặc nổi lên khắp nơi.
Năm 1209, Lý Cao Tông bắt giam vị tướng có công là Bỉnh Di, bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân đánh vào kinh thành để cứu chủ. Thật thảm hại là Thăng Long thất thủ, vua bỏ mặc vợ con chạy tuốt lên mạn ngược, còn Hoàng hậu và Thái tử chạy té xuống phía biển !!! Sau 200 năm, lần đầu tiên Thăng Long rơi vào tay họ khác.
Có lẽ Thăng Long đã yên bình quá lâu, lần cuối cùng bị quân giặc đe doạ là quân Tống cách cũng đã 130 năm, mà cũng chưa phạm đến gần kinh đô, còn thì toàn giặc giã ở ngoài biên, nên triều đình không thể phản ứng và chống cự dù chỉ một cuộc tấn công nhỏ. Vua thì hèn và bất tài chỉ biết chạy.
Thái tử thì chạy về Hưng Hà, Thái Bình, nương nhờ gia tộc họ Trần. Tại đây vị thái tử mới 16 tuổi khi gặp cô gái Trần Thị Dung đã lấy luôn làm vợ, và từ bấy họ Trần bước vào lịch sử Việt Nam. Anh ruột Trần Thị Dung là Trần Tự Khánh và cậu là Tô Trung Từ mộ quân về lấy lại Thăng Long, đưa Cao Tông về, nhưng khắp nơi đã loạn cả, mỗi địa phương có các hào trưởng cát cứ đánh nhau.
Cao Tông về Thăng Long chỉ được một năm thì chết, truyền ngôi cho Thái tử, tức là Lý Huệ Tông, vị vua thứ 8 của triều Lý.
Năm 1209, Lý Cao Tông bắt giam vị tướng có công là Bỉnh Di, bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân đánh vào kinh thành để cứu chủ. Thật thảm hại là Thăng Long thất thủ, vua bỏ mặc vợ con chạy tuốt lên mạn ngược, còn Hoàng hậu và Thái tử chạy té xuống phía biển !!! Sau 200 năm, lần đầu tiên Thăng Long rơi vào tay họ khác.
Có lẽ Thăng Long đã yên bình quá lâu, lần cuối cùng bị quân giặc đe doạ là quân Tống cách cũng đã 130 năm, mà cũng chưa phạm đến gần kinh đô, còn thì toàn giặc giã ở ngoài biên, nên triều đình không thể phản ứng và chống cự dù chỉ một cuộc tấn công nhỏ. Vua thì hèn và bất tài chỉ biết chạy.
Thái tử thì chạy về Hưng Hà, Thái Bình, nương nhờ gia tộc họ Trần. Tại đây vị thái tử mới 16 tuổi khi gặp cô gái Trần Thị Dung đã lấy luôn làm vợ, và từ bấy họ Trần bước vào lịch sử Việt Nam. Anh ruột Trần Thị Dung là Trần Tự Khánh và cậu là Tô Trung Từ mộ quân về lấy lại Thăng Long, đưa Cao Tông về, nhưng khắp nơi đã loạn cả, mỗi địa phương có các hào trưởng cát cứ đánh nhau.
Cao Tông về Thăng Long chỉ được một năm thì chết, truyền ngôi cho Thái tử, tức là Lý Huệ Tông, vị vua thứ 8 của triều Lý.
Lý Huệ Tông
Kết thúc triều Lý
Trần Thủ Độ - Trần Thị Dung
Trần Liễu và Trần Cảnh
Trần Cảnh làm vua Thái Tông ở Thăng Long, thì anh trai là Trần Liễu ở quê, lấy được công chúa nhà Lý là Thuận Thiên nên cũng yên lòng. Nhưng rồi cũng lên Thăng Long cùng em và cha.
Nhà Trần xuất thân dân dã, nên thời đầu lễ nghi khá tự do không câu nệ. Em trai làm hoàng đế, tôn cha làm Thượng hoàng rồi, thì cũng gọi ông anh trai là Hiển hoàng, nghĩa là cũng có tước hoàng đế nốt. Điều này cũng khiến Trần Liễu (mới ngoài 20 tuổi) có hi vọng ngôi về mình.
Thời Lý chưa đắp đê dọc sông Cái, chỉ đắp đê quanh Thăng Long. Năm ấy đê vỡ, nước tràn cả vào thành, Trần Liễu 25 tuổi bơi thuyền vào Hoàng cung, thấy cô cung nữ của vua Lý cũ vén áo lội nước, liền cưỡng bức luôn. Chuyện lộ ra, Trần Liễu mất cái tước "Hoàng", lại làm Vương, Trần Thủ Độ ghét đứa cháu phóng túng lắm.
Năm sau, thấy Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng mãi mà không có con (hai người mới 19 tuổi chứ mấy), trong khi cô chị Thuận Thiên 21 tuổi đã kịp sinh một con trai, lại đang có mang người thứ hai với Trần Liễu, nên Trần Thủ Độ lạnh lùng bắt Trần Cảnh bỏ Chiêu Hoàng, bắt Thuận Thiên đang là vợ anh sang làm vợ em, để có gì thì còn có người nối dõi. Trần Cảnh kinh sợ mưu mô trái đạo của ông chú gian hùng, bỏ trốn khỏi Thăng Long lên Yên Tử. Trần Liễu cũng đem quân làm loạn.
Thế là lần đầu tiên trong triều Trần, vua bỏ trốn khỏi Thăng Long.
Thủ Độ đón vua về xong, ép được vợ anh sang làm vợ em, muốn giết Trần Liễu nhưng Trần Cảnh ngăn được. Thế là Trần Liễu phải rời Thăng Long, về đất Yên Sinh làm Yên Sinh Vương, ở đó đến khi chết không về kinh. Thuận Thiên thì sinh được hai trai nữa với Trần Cảnh, khiến Thủ Độ khỏi lo.
Trần Thái Tông cũng là người sai dựng các ngôi Đình trên khắp đất nước để làm chỗ nghỉ chân cho vua quan khi kinh lý, đặt tượng Phật để thờ. Các ngôi đình làng ra đời từ đó.
Cũng sau vài lần vỡ đê nước ngập Thăng Long, nhà Trần mới cho đắp đê dọc sông Cái, tạo thành hệ thống đê cho đến nay.
Nhà Trần xuất thân dân dã, nên thời đầu lễ nghi khá tự do không câu nệ. Em trai làm hoàng đế, tôn cha làm Thượng hoàng rồi, thì cũng gọi ông anh trai là Hiển hoàng, nghĩa là cũng có tước hoàng đế nốt. Điều này cũng khiến Trần Liễu (mới ngoài 20 tuổi) có hi vọng ngôi về mình.
Thời Lý chưa đắp đê dọc sông Cái, chỉ đắp đê quanh Thăng Long. Năm ấy đê vỡ, nước tràn cả vào thành, Trần Liễu 25 tuổi bơi thuyền vào Hoàng cung, thấy cô cung nữ của vua Lý cũ vén áo lội nước, liền cưỡng bức luôn. Chuyện lộ ra, Trần Liễu mất cái tước "Hoàng", lại làm Vương, Trần Thủ Độ ghét đứa cháu phóng túng lắm.
Năm sau, thấy Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng mãi mà không có con (hai người mới 19 tuổi chứ mấy), trong khi cô chị Thuận Thiên 21 tuổi đã kịp sinh một con trai, lại đang có mang người thứ hai với Trần Liễu, nên Trần Thủ Độ lạnh lùng bắt Trần Cảnh bỏ Chiêu Hoàng, bắt Thuận Thiên đang là vợ anh sang làm vợ em, để có gì thì còn có người nối dõi. Trần Cảnh kinh sợ mưu mô trái đạo của ông chú gian hùng, bỏ trốn khỏi Thăng Long lên Yên Tử. Trần Liễu cũng đem quân làm loạn.
Thế là lần đầu tiên trong triều Trần, vua bỏ trốn khỏi Thăng Long.
Thủ Độ đón vua về xong, ép được vợ anh sang làm vợ em, muốn giết Trần Liễu nhưng Trần Cảnh ngăn được. Thế là Trần Liễu phải rời Thăng Long, về đất Yên Sinh làm Yên Sinh Vương, ở đó đến khi chết không về kinh. Thuận Thiên thì sinh được hai trai nữa với Trần Cảnh, khiến Thủ Độ khỏi lo.
Trần Thái Tông cũng là người sai dựng các ngôi Đình trên khắp đất nước để làm chỗ nghỉ chân cho vua quan khi kinh lý, đặt tượng Phật để thờ. Các ngôi đình làng ra đời từ đó.
Cũng sau vài lần vỡ đê nước ngập Thăng Long, nhà Trần mới cho đắp đê dọc sông Cái, tạo thành hệ thống đê cho đến nay.
Chống Nguyên lần 1
Chống Nguyên lần 2 và 3
Trần Hưng Đạo
Uy Linh Lang
Tại Thăng Long còn tôn thờ thần Uy Linh Lang từ đời Trần (lưu ý, không phải Linh Lang đời Lý).
Truyền thuyết kể rằng Uy Linh Lang là con vua Trần Thánh Tông và bà Chính Cung Minh Đức hoàng hậu, có tên Trần Văn Lang. Ông chiêu tập được cả vạn binh mã, đặt tên là Thiên tử quân cùng chống giặc Nguyên. Sau khi dẹp yên giặc, ông không bệnh mà mất ở phủ tại khu vực Nhật Tân. Vua Trần thương tiếc sai dựng điện Nhật Chiêu để thờ, đến nay là đình Nhật Tân trên đường Âu Cơ.
Tuy nhiên trong sử thì vua Trần Thánh Tông không có bà vợ nào là Minh Đức cả, mà cũng không có con trai nào tên như thế, hoặc có hiệu như thế. Dân gian đã sáng tạo nên hình tượng vị thần có phần mang màu sắc Thuỷ thần, gán vào làm con vua, có công đánh giặc rồi thành thần.
Uy Linh Lang đời Trần như thế rất giống với Linh Lang đời Lý, cùng có truyền thuyết là con vua, cùng chống giặc, cùng gắn với sông hồ, cùng mơ hồ như nhau. Phải chăng cả hai là một, nhưng được thần thánh hoá vào hai triều đại khác nhau ?
Đình Nhật Tân, theo truyền thuyết thì nguyên là điện Nhật Chiêu, nơi thờ Uy Linh Lang
Truyền thuyết kể rằng Uy Linh Lang là con vua Trần Thánh Tông và bà Chính Cung Minh Đức hoàng hậu, có tên Trần Văn Lang. Ông chiêu tập được cả vạn binh mã, đặt tên là Thiên tử quân cùng chống giặc Nguyên. Sau khi dẹp yên giặc, ông không bệnh mà mất ở phủ tại khu vực Nhật Tân. Vua Trần thương tiếc sai dựng điện Nhật Chiêu để thờ, đến nay là đình Nhật Tân trên đường Âu Cơ.
Tuy nhiên trong sử thì vua Trần Thánh Tông không có bà vợ nào là Minh Đức cả, mà cũng không có con trai nào tên như thế, hoặc có hiệu như thế. Dân gian đã sáng tạo nên hình tượng vị thần có phần mang màu sắc Thuỷ thần, gán vào làm con vua, có công đánh giặc rồi thành thần.
Uy Linh Lang đời Trần như thế rất giống với Linh Lang đời Lý, cùng có truyền thuyết là con vua, cùng chống giặc, cùng gắn với sông hồ, cùng mơ hồ như nhau. Phải chăng cả hai là một, nhưng được thần thánh hoá vào hai triều đại khác nhau ?
Đình Nhật Tân, theo truyền thuyết thì nguyên là điện Nhật Chiêu, nơi thờ Uy Linh Lang
Một số báo chí cũng không phân biệt được vị thần ở đền Voi Phục Thuỵ Khuê là thần Linh Lang của Voi Phục Thủ Lệ, vì chỉ khác nhau chữ Uy mà thôi (hồi trước tôi cũng thế). Cũng vì vậy có bài báo nói những cây cổ thụ trong đền Voi Phục Thuỵ Khuê là có từ nghìn năm trước, như bài báo này (nhấn vào link để xem)
Đền Voi Phục Thuỵ Khuê, thờ Uy Linh Lang là vị nhân thần đời Trần.
Sau chiến tranh, dân cư lại tập trung đông đúc về Thăng Long, khu phố chợ bên ngoài hoàng thành chắc cũng đông vui lắm, nên vua Anh Tông đến buổi tối là trốn ra khỏi hoàng cung để đi chơi, có lần còn bị ném đá vỡ cả đầu.
Bấy giờ các nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Ai Lao cũng giao thiệp thường xuyên, nên đã có khu Quán Sứ để đón tiếp sứ giả các nước. Quán Sứ đời Trần có nằm ở vị trí Quán Sứ đời Lê và chùa Quán Sứ hiện nay không thì không dám chắc.
Trong hai triều Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, đất nước yên ổn, Thăng Long lấy lại sự huy hoàng xưa, và có lẽ còn đẹp đẽ hơn trước.
Nhưng cũng chỉ được vài chục năm...
Hình con rồng đầu đời Trần, mạnh mẽ oai phong
Chu Văn An
Hào quang anh hùng của cha ông qua đi, con cháu nhà Trần được sống trong nhung lụa dần quay sang thối nát, còn tệ hơn cuối triều Lý trước kia. Trần Minh Tông mất rồi, Dụ Tông bắt đầu tàn phá cơ nghiệp họ Trần từ năm 1358.
Chu Văn An, người Thanh Trì, Hà Nội hiện nay, là nhà nho danh tiếng bậc nhất bấy giờ, làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông dâng Thất trảm sớxin chém 7 kẻ gian thần, nhưng vua không nghe, nên về Chí Linh ở ẩn. Đời sau tôn ông là Văn Thánh của Đại Việt, coi là Thiên Nam sư biểu, cùng với Võ Thánh Trần Hưng Đạo, là hai bậc thánh nhân của triều Trần.
Ngày nay, tại nhà Thái Học mới làm lại phía sau Văn Miếu, chính điện thờ tượng của ông, là vị thầy tiêu biểu cho Chính học trời Nam, cũng là cho nền Học thuật nước nhà.
Tượng Chu Văn An trong nhà Thái Học
Chu Văn An, người Thanh Trì, Hà Nội hiện nay, là nhà nho danh tiếng bậc nhất bấy giờ, làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông dâng Thất trảm sớxin chém 7 kẻ gian thần, nhưng vua không nghe, nên về Chí Linh ở ẩn. Đời sau tôn ông là Văn Thánh của Đại Việt, coi là Thiên Nam sư biểu, cùng với Võ Thánh Trần Hưng Đạo, là hai bậc thánh nhân của triều Trần.
Ngày nay, tại nhà Thái Học mới làm lại phía sau Văn Miếu, chính điện thờ tượng của ông, là vị thầy tiêu biểu cho Chính học trời Nam, cũng là cho nền Học thuật nước nhà.
Tượng Chu Văn An trong nhà Thái Học
Chiêm Thành 4 lần phá Thăng Long
Thăng Long thành Đông Đô
Truyền thuyết Hồ Quý Ly
Có một truyền thuyết về Hồ Quý Ly, rằng khi còn hàn vi, có lần ông đọc được trên bờ sông dòng chữ ai đó viết trên bờ cát "Quảng Hàn cung lý nhất chi mai" (Cung Quảng Hàn có một cành mai), thấy hay nên nhớ trong lòng.
Đến khi làm quan nhà Trần, một lần theo vua Trần đi chơi điện Thanh Thử, vua thấy có nhiều gốc quế đẹp quá, ra câu đối: "Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế" (Điện Thanh Thử phía trước có nghìn cây quế), Hồ Quý Ly bỗng nhớ câu thuở xưa trên bờ cát, đối lại, thành ra một đôi câu đối rất hoàn chỉnh:
Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế
Quảng Hàn cung lý nhất chi mai
Điều đặc biệt là vua Trần có cô công chúa tên là Nhất Chi Mai rất được yêu chiều, sống tại một cung mà vua thường hay gọi là Quảng Hàn (cũng là tên cung của Hằng Nga trên cung Trăng). Vua hỏi sao nghĩ ra câu đó thì Hồ Quý Ly cứ thành thực mà trả lời. Vua cho rằng có duyên nên gả công chúa Nhất Chi Mai cho Hồ Quý Ly, từ đó ông ngày càng vinh hiển.
Câu truyện trên là một truyền thuyết đẹp, tuy nhiên điện Thanh Thử ở đâu, cung Quảng Hàn là cung nào, công chúa Nhất Chi Mai là ai thì trên thực tế không rõ ràng.
Sự thực lịch sử là Hồ Quý Ly có hai bà cô đều làm phi của vua Minh Tông, một bà sinh ra vua Nghệ Tông, một bà sinh ra vua Duệ Tông. Nghệ Tông có bà chị là công chúa Huy Ninh, goá chồng, nên vua làm mai cho Hồ Quý Ly luôn, thành ra Hồ Quý Ly vừa là anh đằng mẹ, vừa là anh rể. Rồi lại cưới con gái Hồ Quý Ly cho con trai vua, thành ra lại còn là thông gia. Lằng nhằng thế nên quyền về tay Quý Ly hết.
Vị vua cuối cùng triều Trần bị Hồ Quý Ly phế bỏ cũng chính là cháu gọi ông ta bằng ông ngoại.
Đến khi làm quan nhà Trần, một lần theo vua Trần đi chơi điện Thanh Thử, vua thấy có nhiều gốc quế đẹp quá, ra câu đối: "Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế" (Điện Thanh Thử phía trước có nghìn cây quế), Hồ Quý Ly bỗng nhớ câu thuở xưa trên bờ cát, đối lại, thành ra một đôi câu đối rất hoàn chỉnh:
Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế
Quảng Hàn cung lý nhất chi mai
Điều đặc biệt là vua Trần có cô công chúa tên là Nhất Chi Mai rất được yêu chiều, sống tại một cung mà vua thường hay gọi là Quảng Hàn (cũng là tên cung của Hằng Nga trên cung Trăng). Vua hỏi sao nghĩ ra câu đó thì Hồ Quý Ly cứ thành thực mà trả lời. Vua cho rằng có duyên nên gả công chúa Nhất Chi Mai cho Hồ Quý Ly, từ đó ông ngày càng vinh hiển.
Câu truyện trên là một truyền thuyết đẹp, tuy nhiên điện Thanh Thử ở đâu, cung Quảng Hàn là cung nào, công chúa Nhất Chi Mai là ai thì trên thực tế không rõ ràng.
Sự thực lịch sử là Hồ Quý Ly có hai bà cô đều làm phi của vua Minh Tông, một bà sinh ra vua Nghệ Tông, một bà sinh ra vua Duệ Tông. Nghệ Tông có bà chị là công chúa Huy Ninh, goá chồng, nên vua làm mai cho Hồ Quý Ly luôn, thành ra Hồ Quý Ly vừa là anh đằng mẹ, vừa là anh rể. Rồi lại cưới con gái Hồ Quý Ly cho con trai vua, thành ra lại còn là thông gia. Lằng nhằng thế nên quyền về tay Quý Ly hết.
Vị vua cuối cùng triều Trần bị Hồ Quý Ly phế bỏ cũng chính là cháu gọi ông ta bằng ông ngoại.
Thăng Long thương đau
Họ Hồ dời đô vào thành Tây Đô, và giặc Minh sang xâm lược, năm 1407 Thăng Long thất thủ, Hồ Quý Ly bị bắt sang Tàu, đi đày làm lính, gia tộc họ Hồ và quan lại bị bắt về Minh. Đại Việt mất về tay giặc Minh.
Hồ Quý Ly là vị vua đầu tiên bị Tàu bắt, lại sợ chết không dám tự tử, chịu nhục nhã để sống đời lao dịch ở Tàu. Hai con của ông thì đi theo làm quan cho Tàu.
Hồ Nguyên Trừng nổi tiếng về chế tạo súng thần công nên nhà Minh trọng dụng. Người ta vẫn ca ngợi đó trí tuệ người Việt, riêng tôi thấy chả hay ho chút nào. Trí tuệ đó không giúp nước, giúp vua cha, mà sau lại đi giúp quân giặc, làm quan cho giặc. Bao nhiêu khẩu súng thần công nhà Minh chĩa bắn vào người dân Việt đều có phần của Nguyên Trừng đó !!!
Trong thời loạn, có hai tôn thất nhà Trần nổi lên làm vua, xưng đế là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Trần Ngỗi thì bị giêt trong chiến trận, còn Trần Quý Khoáng bị giặc bắt giải về Bắc, đã nhảy xuống biển tự tử, chứ không chịu nhục như Hồ Quý Ly để cầu sống. Các tướng lĩnh của ông cũng oanh liệt tử tiết chứ không chịu nhục để bị giải về Tàu. Con cháu nhà Trần như thế vẫn còn giữ được khí tiết oai hùng của cha ông.
Từ đây bắt đầu giai đoạn 20 năm đau thương khi giặc Minh đô hộ Đại Việt, trị sở đóng tại Thăng Long, nhưng bị đổi thành Đông Quan.
Con rồng triều Hồ, một con rồng đã mất đầu. Cái oai của nó chỉ còn nằm khoe với ruộng lúa mà thôi. Cái tội để cho đất nước rơi vào tay giặc, đều được quy cho Hồ Quý Ly, vì quá tham quyền vị mà để mất lòng dân, làm tan tác tinh thần đoàn kết của người Việt.
Hồ Quý Ly là vị vua đầu tiên bị Tàu bắt, lại sợ chết không dám tự tử, chịu nhục nhã để sống đời lao dịch ở Tàu. Hai con của ông thì đi theo làm quan cho Tàu.
Hồ Nguyên Trừng nổi tiếng về chế tạo súng thần công nên nhà Minh trọng dụng. Người ta vẫn ca ngợi đó trí tuệ người Việt, riêng tôi thấy chả hay ho chút nào. Trí tuệ đó không giúp nước, giúp vua cha, mà sau lại đi giúp quân giặc, làm quan cho giặc. Bao nhiêu khẩu súng thần công nhà Minh chĩa bắn vào người dân Việt đều có phần của Nguyên Trừng đó !!!
Trong thời loạn, có hai tôn thất nhà Trần nổi lên làm vua, xưng đế là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Trần Ngỗi thì bị giêt trong chiến trận, còn Trần Quý Khoáng bị giặc bắt giải về Bắc, đã nhảy xuống biển tự tử, chứ không chịu nhục như Hồ Quý Ly để cầu sống. Các tướng lĩnh của ông cũng oanh liệt tử tiết chứ không chịu nhục để bị giải về Tàu. Con cháu nhà Trần như thế vẫn còn giữ được khí tiết oai hùng của cha ông.
Từ đây bắt đầu giai đoạn 20 năm đau thương khi giặc Minh đô hộ Đại Việt, trị sở đóng tại Thăng Long, nhưng bị đổi thành Đông Quan.
Con rồng triều Hồ, một con rồng đã mất đầu. Cái oai của nó chỉ còn nằm khoe với ruộng lúa mà thôi. Cái tội để cho đất nước rơi vào tay giặc, đều được quy cho Hồ Quý Ly, vì quá tham quyền vị mà để mất lòng dân, làm tan tác tinh thần đoàn kết của người Việt.
Thăng Long trong tay giặc
20 năm Thăng Long dưới thời Vương Thông cai trị chịu nhiều tàn phá thâm độc nhất, đặc biệt về mặt văn hoá. Triều đình nhà Minh hạ lệnh:Ngoại trừ kinh Phật, Lão, Nho, tất cả các sách vở của An Nam cái gì mang được về Tàu thì mang hết, còn không thì phải huỷ cho bằng sạch, kể cả sách cho trẻ con.
Sự tàn phá không chỉ dừng lại ở cung điện, kho tàng như khi Chiêm Thành chiếm, mà còn ở tất cả các nơi. Tất cả sách vở, tư liệu của triều Lý, Trần đều bị cướp hoặc đốt sạch. Ngay cả các ngôi chùa, đền là nơi Chiêm Thành không dám phạm, thì triều Minh cũng không tha. Các tấm bia - những nguồn tài liệu vô giá - cũng bị đập sạch.
Sau đó, khi bị Lê Lợi vây hãm, Vương Thông còn phá huỷ tất cả các đồ đồng trong Thăng Long. Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên bị phá trong thời gian này. Trước đó thì các sách đồng, sau thì các chuông chùa, đồ tế khí... đều bị nấu chảy.
Có thể nói bên cạnh sự vơ vét của cải vật chất, sự tàn phá về văn hoá dưới thời Minh đô hộ là vô cùng thảm khốc. Chính vì thế cho đến nay, trong phạm vi Thăng Long, không còn bất kỳ một tấm bia, một quả chuông, một mảnh công trình kiến trúc lớn nguyên vẹn nào còn lại từ trước thời Lê. Trong khi tại các vùng khác thì vẫn còn rải rác nhiều di vật bằng đá và cả gỗ thời Lý Trần, thì chính tại Thăng Long lại sạch sành sanh.
Những mất mát này vô cùng đau xót, chúng ta ngày nay không thể biết được các bộ Luật, các chế định của đời Lý Trần, Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo, các bài sách thuốc xưa... ra sao. Các đền chùa ở Hà Nội ngày nay thì các tấm bia cũng từ đời Lê về sau, nên thường cũng khuyết phần lịch sử trước đó. Những lỗ hổng tư liệu đó không bao giờ bù đắp được.
Tội của các vị vua, không gì lớn bằng tạo điều kiện để quân ngoại bang vào cai trị đất nước.
Sự tàn phá không chỉ dừng lại ở cung điện, kho tàng như khi Chiêm Thành chiếm, mà còn ở tất cả các nơi. Tất cả sách vở, tư liệu của triều Lý, Trần đều bị cướp hoặc đốt sạch. Ngay cả các ngôi chùa, đền là nơi Chiêm Thành không dám phạm, thì triều Minh cũng không tha. Các tấm bia - những nguồn tài liệu vô giá - cũng bị đập sạch.
Sau đó, khi bị Lê Lợi vây hãm, Vương Thông còn phá huỷ tất cả các đồ đồng trong Thăng Long. Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên bị phá trong thời gian này. Trước đó thì các sách đồng, sau thì các chuông chùa, đồ tế khí... đều bị nấu chảy.
Có thể nói bên cạnh sự vơ vét của cải vật chất, sự tàn phá về văn hoá dưới thời Minh đô hộ là vô cùng thảm khốc. Chính vì thế cho đến nay, trong phạm vi Thăng Long, không còn bất kỳ một tấm bia, một quả chuông, một mảnh công trình kiến trúc lớn nguyên vẹn nào còn lại từ trước thời Lê. Trong khi tại các vùng khác thì vẫn còn rải rác nhiều di vật bằng đá và cả gỗ thời Lý Trần, thì chính tại Thăng Long lại sạch sành sanh.
Những mất mát này vô cùng đau xót, chúng ta ngày nay không thể biết được các bộ Luật, các chế định của đời Lý Trần, Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo, các bài sách thuốc xưa... ra sao. Các đền chùa ở Hà Nội ngày nay thì các tấm bia cũng từ đời Lê về sau, nên thường cũng khuyết phần lịch sử trước đó. Những lỗ hổng tư liệu đó không bao giờ bù đắp được.
Tội của các vị vua, không gì lớn bằng tạo điều kiện để quân ngoại bang vào cai trị đất nước.
Theo tôi biết thì mấy quyển Binh thư yếu lược bán ngoài hàng đó là gần đây bịa ra, lý do tại sao thì tôi không dám chắc.
Theo Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú liệt kê hàng chục bộ sách của Đại Việt thời Lý Trần, gồm các sách Hình luật, Điển chế, Thông lễ, Thực lục, Thi tập, Tuỳ bút, Đại điển... của các triều, các vua và các học giả Đại Việt, trong đó có sách của Trần Hưng Đạo đem về Kim Lăng (Nam Kinh).
Một số sách như Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần, vì được khắc bản in ra nhiều và lưu trữ ở nhiều nơi, nên còn giữ được. Một số thi tập của Chu Văn An, vua Trần,..., còn lưu giữ là vì để ở nơi khác. Sách thiền của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cũng vậy. Nhưng cũng nhiều thi tập khác đã mất mãi mãi.
Ngược lại, Tàu đem tống sang Đại Việt rất nhiều sách Tứ thư, Ngũ kinh, sách Tu thần luyện đan của Đạo giáo. Phải chăng vì thế mà sang đời Lê thì Đạo giáo lại hưng thịnh trở lại, và rồi Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng mang màu sắc Đạo giáo lại phát triển ?
Cái ý "cưỡng hiếp văn hoá" là của ông nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
Theo Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú liệt kê hàng chục bộ sách của Đại Việt thời Lý Trần, gồm các sách Hình luật, Điển chế, Thông lễ, Thực lục, Thi tập, Tuỳ bút, Đại điển... của các triều, các vua và các học giả Đại Việt, trong đó có sách của Trần Hưng Đạo đem về Kim Lăng (Nam Kinh).
Một số sách như Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần, vì được khắc bản in ra nhiều và lưu trữ ở nhiều nơi, nên còn giữ được. Một số thi tập của Chu Văn An, vua Trần,..., còn lưu giữ là vì để ở nơi khác. Sách thiền của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cũng vậy. Nhưng cũng nhiều thi tập khác đã mất mãi mãi.
Ngược lại, Tàu đem tống sang Đại Việt rất nhiều sách Tứ thư, Ngũ kinh, sách Tu thần luyện đan của Đạo giáo. Phải chăng vì thế mà sang đời Lê thì Đạo giáo lại hưng thịnh trở lại, và rồi Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng mang màu sắc Đạo giáo lại phát triển ?
Cái ý "cưỡng hiếp văn hoá" là của ông nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
Bến Bồ Đề
Nhà Minh cai trị 20 năm, nhưng liên tục gặp khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa cuối cùng để giành lại giang sơn của Lê Lợi từ Lam Sơn năm 1418, sau gần mười năm gian khổ đã tiến ra vây thành Đông Quan.
Đại quân của Lê Lợi đóng ở bến Bồ Đề tại Gia Lâm, nay là khu vực chùa Bồ Đề, có lẽ vì thời đó có trồng nhiều cây này. Từ đây, Bình Định vương Lê Lợi lên lầu nhìn về cố đô trong tay giặc. Còn giặc thì chờ đợi tiếp viện.
Từ bến Bồ Đề nhìn qua sông Hồng về Hà Nội ngày nay. Gần 600 năm trước Lê Lợi cũng nhìn về Thăng Long như thế này chăng ?
Đại quân của Lê Lợi đóng ở bến Bồ Đề tại Gia Lâm, nay là khu vực chùa Bồ Đề, có lẽ vì thời đó có trồng nhiều cây này. Từ đây, Bình Định vương Lê Lợi lên lầu nhìn về cố đô trong tay giặc. Còn giặc thì chờ đợi tiếp viện.
Từ bến Bồ Đề nhìn qua sông Hồng về Hà Nội ngày nay. Gần 600 năm trước Lê Lợi cũng nhìn về Thăng Long như thế này chăng ?
Hoàn Kiếm
Năm 1428, Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi sau khi vị vua giả tạm là Trần Cảo đã (bị bức) chết. Công của nhà Lê giành lại giang sơn người dân Việt không bao giờ quên, kể cả sau này khi con cháu họ Lê suy đồi thì người dân vẫn vì ơn trước mà luôn ủng hộ.
Truyền thuyết ý nghĩa nhất về Lê Lợi là huyền thoại trả gươm, mà mỗi người dân Việt đều biết. Dưới thời Lý Trần, khu vực Đông của Thăng Long không được chú trọng nhiều, và hồ nước ở đó gọi là hồ Lục Thuỷ, thông với sông Hồng. Hồ có tên đó do màu nước xanh đặc biệt. Vua Lê đi thuyền từ sông Hồng có thể vào hồ, từ đây lên chùa Báo Thiên. Tại đây Lê Lợi đã trả lại gươm thần Thuận Thiên cho rùa vàng, gửi lại Long Quân. Từ đó hồ có tên là Hoàn Kiếm.
Trong hầu hết tài liệu ghi nguồn gốc tên hồ đều viết: "Sau đó hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm", điều này không phù hợp, bởi cái tên hồ Tả Vọng mãi đến mấy trăm năm sau Lê Lợi mới có !
Cũng không rõ truyền thuyết trên xuất hiện ngay sau khi Lê Lợi lên ngôi hay không, vì sử sách đời Lê vẫn ghi tên hồ là Lục Thuỷ, hoặc Thuỷ Quân, sau đời Chúa Trịnh lại có tên là Tả Vọng, chứ không ghi tên Hoàn Kiếm. Có vẻ như cái tên Hoàn Kiếm được trở thành phổ biến và chính thức từ cuối Lê đầu Nguyễn.
Ngày nay, bên phía Tây hồ Hoàn Kiếm, phố Lê Thái Tổ, có đền thờ Lê Lợi, và bức tượng đồng của vua đứng cầm gươm chĩa xuống hồ, đứng trên một cây cột đá. Tượng được dựng năm 1888, cây cột được làm theo kiểu phương Tây. Không nhiều người để ý đến di tích này.
Truyền thuyết ý nghĩa nhất về Lê Lợi là huyền thoại trả gươm, mà mỗi người dân Việt đều biết. Dưới thời Lý Trần, khu vực Đông của Thăng Long không được chú trọng nhiều, và hồ nước ở đó gọi là hồ Lục Thuỷ, thông với sông Hồng. Hồ có tên đó do màu nước xanh đặc biệt. Vua Lê đi thuyền từ sông Hồng có thể vào hồ, từ đây lên chùa Báo Thiên. Tại đây Lê Lợi đã trả lại gươm thần Thuận Thiên cho rùa vàng, gửi lại Long Quân. Từ đó hồ có tên là Hoàn Kiếm.
Trong hầu hết tài liệu ghi nguồn gốc tên hồ đều viết: "Sau đó hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm", điều này không phù hợp, bởi cái tên hồ Tả Vọng mãi đến mấy trăm năm sau Lê Lợi mới có !
Cũng không rõ truyền thuyết trên xuất hiện ngay sau khi Lê Lợi lên ngôi hay không, vì sử sách đời Lê vẫn ghi tên hồ là Lục Thuỷ, hoặc Thuỷ Quân, sau đời Chúa Trịnh lại có tên là Tả Vọng, chứ không ghi tên Hoàn Kiếm. Có vẻ như cái tên Hoàn Kiếm được trở thành phổ biến và chính thức từ cuối Lê đầu Nguyễn.
Ngày nay, bên phía Tây hồ Hoàn Kiếm, phố Lê Thái Tổ, có đền thờ Lê Lợi, và bức tượng đồng của vua đứng cầm gươm chĩa xuống hồ, đứng trên một cây cột đá. Tượng được dựng năm 1888, cây cột được làm theo kiểu phương Tây. Không nhiều người để ý đến di tích này.
Ngay ở làng đôi khi cũng có nhiều nơi thờ: Chùa, đình, đền, văn chỉ. Kinh đô không giống như các làng, mà có tầm cỡ quốc gia, nên không đơn giản như ở làng được. Nếu như ở các nước có duy nhất một Quốc giáo, thì đền thờ lớn nhất của Quốc giáo đó là đền chính, ví dụ như Thái Lan, Lào theo Phật giáo thì đền chính là chùa Phật Ngọc, là That Luang; hay với nước theo Thiên Chúa giáo thì nhà thờ lớn là đền thờ chính. Nhưng người Việt lại theo nhiều tôn giáo, nhiều tín ngưỡng hoà trộn, cho nên không thể xác định nơi nào là chính nhất.
Tương đương với Đình ở làng thì ở Hà Nội là đền Bạch Mã, thờ vị Thành hoàng của Thăng Long, vị thần giữ cho vùng đất này.
Cấp cao nhất của các Văn chỉ thì là Văn Miếu: vị Thánh tối cao của Nho giáo.
Với Hoàng tộc, thì nơi thờ quan trọng nhất là Thái Miếu thờ tổ tiên: ở Hà Nội không còn.
Tầm cao nhất là đàn Nam Giao thờ Trời và đàn Xã Tắc thờ Đất đều không còn.
Với Đạo giáo thì không có đền nào thờ Thượng đế tối cao Tam Thanh, nên đền Trấn Vũ thành đền chính.
Với người theo Tín ngưỡng Mẫu thì đền chính là Phủ Tây Hồ.
Với người theo Thiên Chúa giáo thì đền chính là Nhà thờ Lớn.
Với Phật giáo thì chùa Báo Thiên là chính, nhưng đã không còn; về lịch sử lâu dài thì chùa Trấn Quốc là dài nhất. Còn về hành chính thì chùa Quán Sứ.
Như thế, không thể nói nơi nào là Chính nhất ở Hà Nội được.
Có nơi quan trọng nhất về mặt chính trị trong lịch sử, nhưng không phải là đền thờ, đó là điện Kính Thiên.
Điện Kính Thiên
Triều Lê tiếp quản một Đông Quan đổ nát, được gọi lại là Đông Đô, nhưng vẫn song song với tên Thăng Long.
Hàng chục ngôi chùa, đền, đạo quán triều Lý Trần được nhắc đến trong sử, từ đời Lê về sau không còn thấy tên nữa, có lẽ đã bị phá huỷ hết rồi. Những chùa như Chân Giáo, Đại Giáo, Hưng Thiên, Vạn Tuế, Thiên Quang, Thiên Ðức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Thọ, Linh Quang, Sùng Nghi, Tư Thánh, Thiên Minh, Thiên Thành, các đạo quán Thái Thanh, Cảnh Linh, Linh Tiên, Ngũ Nhạc... đều mất dấu.
Ngọn tháp Báo Thiên bị phá đổ rồi, nhưng chùa vẫn còn, vẫn là chùa lớn nhất Thăng Long.
Hoàng cung cũng tan hoang. Vì vậy triều Lê phải dựng lại gần như toàn bộ. Tại nơi trung tâm, thiêng liêng nhất của Thăng Long, khi xưa là điệnCàn Nguyên đời Lý, sau đổi là Thiên An, cũng bị phá huỷ. Lê Thái Tổ đã dựng lại điện chính của triều đình tại đây, đổi là điện Kính Thiên, là toà điện quan trọng nhất của Hoàng cung.
Chín bậc đá thềm điện Kính Thiên đời Lê, trải hơn năm trăm năm biến đổi...
(So với thềm điện Thái Hoà ở Huế sau này, bậc thềm này đẹp hơn rất nhiều. Thăng Long cũng không sử dụng những tên gọi rập khuôn bắt chước y sì Trung Quốc kiểu Ngọ môn, Ngũ Phụng, Thái Hoà như triều Nguyến dùng ở Huế)
Hàng chục ngôi chùa, đền, đạo quán triều Lý Trần được nhắc đến trong sử, từ đời Lê về sau không còn thấy tên nữa, có lẽ đã bị phá huỷ hết rồi. Những chùa như Chân Giáo, Đại Giáo, Hưng Thiên, Vạn Tuế, Thiên Quang, Thiên Ðức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Thọ, Linh Quang, Sùng Nghi, Tư Thánh, Thiên Minh, Thiên Thành, các đạo quán Thái Thanh, Cảnh Linh, Linh Tiên, Ngũ Nhạc... đều mất dấu.
Ngọn tháp Báo Thiên bị phá đổ rồi, nhưng chùa vẫn còn, vẫn là chùa lớn nhất Thăng Long.
Hoàng cung cũng tan hoang. Vì vậy triều Lê phải dựng lại gần như toàn bộ. Tại nơi trung tâm, thiêng liêng nhất của Thăng Long, khi xưa là điệnCàn Nguyên đời Lý, sau đổi là Thiên An, cũng bị phá huỷ. Lê Thái Tổ đã dựng lại điện chính của triều đình tại đây, đổi là điện Kính Thiên, là toà điện quan trọng nhất của Hoàng cung.
Chín bậc đá thềm điện Kính Thiên đời Lê, trải hơn năm trăm năm biến đổi...
(So với thềm điện Thái Hoà ở Huế sau này, bậc thềm này đẹp hơn rất nhiều. Thăng Long cũng không sử dụng những tên gọi rập khuôn bắt chước y sì Trung Quốc kiểu Ngọ môn, Ngũ Phụng, Thái Hoà như triều Nguyến dùng ở Huế)
Con rồng đời Lê
Con rồng đầu đời Lê đầy sức mạnh, hùng dũng oai hùng, thể hiện khí phách của một thuở Bình Ngô !
Phía sau đầu rồng vẫn là lớp bờm dài uốn sóng giống triều Lý, Trần, Hồ, chân cuộn cơ bắp, sừng dài uy lực. Những con rồng đẹp mạnh mẽ thế này về sau không còn nữa. Rồng đời sau mang đầy vẻ tròn trịa hiền hoà, và càng ngày càng giống rồng Trung Quốc. Đặc biệt rồng đời Nguyễn thì y hệt rồng Tàu, không còn mang được dáng vẻ nào riêng cả.
(Chòm râu dưới cằm rồng được chân trước nắm chặt, nay đã bị vỡ mất)
Phía sau đầu rồng vẫn là lớp bờm dài uốn sóng giống triều Lý, Trần, Hồ, chân cuộn cơ bắp, sừng dài uy lực. Những con rồng đẹp mạnh mẽ thế này về sau không còn nữa. Rồng đời sau mang đầy vẻ tròn trịa hiền hoà, và càng ngày càng giống rồng Trung Quốc. Đặc biệt rồng đời Nguyễn thì y hệt rồng Tàu, không còn mang được dáng vẻ nào riêng cả.
(Chòm râu dưới cằm rồng được chân trước nắm chặt, nay đã bị vỡ mất)
Đoan Môn
Giữa khu ngoài và khu trong là cửa lớn Đoan Môn, Đoan nghĩa là Chính giữa, chính thống. Cửa này xây đời Lê, bên dưới toàn bằng đá, trổ 5 cửa. Cửa giữa cho vua, hai bên cho quan và hoàng tộc, hai bên nữa cho lính, bên trên có lầu. Cửa hình chữ U, với hai cánh quay vào trong phía điện Kính Thiên.
Triều Nguyễn, gần 400 năm sau cũng làm Ngọ Môn theo kiến trúc tương tự, nhưng với kích thước lớn hơn, sử dụng chủ yếu là gạch, và hướng của hai cánh hai bên quay ra ngoài. Lúc đầu cửa ở Huế cũng gọi là Đoan Môn, sau đó mới đổi là Ngọ Môn cho nó ... giống Tàu. Cửa Đoan Môn ở Thăng Long chỉ là cửa nằm giữa, phân tách nửa ngoài Hoàng thành với Cấm thành, còn cửa Ngọ Môn ở Huế là cửa vào Hoàng thành.
Vì Đoan Môn nằm giữa Hoàng thành, nên từ trên có thể nhìn bao quát cả Hoàng thành, với các cơ quan ở phía Nam, Thái Miếu phía Đông, Cấm thành phía Bắc.
Góc chụp này quá hẹp do bên trái có cái nhà của quân đội choán mất. Nay cái nhà ấy đang được phá đi, hi vọng sửa sang xong, có thể thoải mái chụp trực diện.
Chùa Huy Văn
Ngay trong khuôn viên chùa Huy Văn (như tôi viết ở trên). Chùa Huy Văn nằm trong một ngách nhỏ là ngách Chùa Huy Văn, trong ngõ Văn Chương. Cái cổng nhỏ xập xệ đến nỗi nếu không có lá cờ Phật giáo treo bên trên thì dù đã từng đi vào rồi, tôi vẫn không tìm lại ngay được. Đối diện có Văn chỉ của làng, hay gọi là đền Văn Chương, nhưng cũng bị nhà dân lấn hết rồi.
Bức ảnh dưới đây chụp từ ngách vào Văn chỉ sang bên ngách vào chùa Huy Văn; ở giữa là ngõ Văn Chương.
@home: Khi nào có thời gian đi lên phía đó tôi sẽ thử tìm hiểu xem. Có nhiều bài báo cho biết những điều rất hay, nhưng cũng có nhiều bài hay nói quá.
Những tấm bia tiến sỹ
Mặc dù nhà Lý đã tổ chức các khoa thi từ năm 1075, nhưng đến Lê Thánh Tông mới cho dựng các bia tiến sỹ, ghi danh những người đỗ đại khoa, đặt ở trong Văn Miếu để vinh danh.
Tấm bia đầu tiên được dựng năm 1484, cách đây hơn 500 năm, ghi danh các tiến sỹ đỗ năm 1442, trước đó hơn 40 năm. Truyền thống dựng bia tiến sỹ đó được tiếp tục cho đến cuối triều Lê, triều Nguyễn dời vào Huế. Chính xác có bao nhiêu tấm bia không rõ, chỉ biết đến nay còn lại 82 bia, là di sản văn hoá đặc biệt của quốc gia.
Công của Lê Thánh Tông với nền nho học rất lớn, do đó hiện nay tượng của ông được thờ cùng Lý Thái Tông (người lập Văn Miếu), Lý Thánh Tông (người lập Quốc Tử Giám) trong nhà Thái học.
Lê Thánh Tông rất thích văn thơ, lập hội Tao Đàn và tự mình làm Đàn chủ, để lại nhiều bài thơ. Bên cạnh đó, ông cũng tham gia chinh chiến đánh dẹp, mà chiến công lớn nhất là dẹp yên Chiêm Thành, tiến đến tận Bình Định. Hơn thế nữa, ông đã dùng chính sách "chia để trị", chia ba nước Chiêm Thành, lập ba vua để họ đánh lẫn nhau. Từ đó Chiêm Thành suy yếu, không bao giờ hồi phục được nữa, và cũng không bao giờ là mối đe doạ với Đại Việt như thời triều Trần nữa.
Lê Thánh Tông được tôn vinh là vị vua văn võ toàn tài, tài giỏi bậc nhất trong lịch sử Việt Nam.
Tấm bia đầu tiên được dựng năm 1484, cách đây hơn 500 năm, ghi danh các tiến sỹ đỗ năm 1442, trước đó hơn 40 năm. Truyền thống dựng bia tiến sỹ đó được tiếp tục cho đến cuối triều Lê, triều Nguyễn dời vào Huế. Chính xác có bao nhiêu tấm bia không rõ, chỉ biết đến nay còn lại 82 bia, là di sản văn hoá đặc biệt của quốc gia.
Công của Lê Thánh Tông với nền nho học rất lớn, do đó hiện nay tượng của ông được thờ cùng Lý Thái Tông (người lập Văn Miếu), Lý Thánh Tông (người lập Quốc Tử Giám) trong nhà Thái học.
Lê Thánh Tông rất thích văn thơ, lập hội Tao Đàn và tự mình làm Đàn chủ, để lại nhiều bài thơ. Bên cạnh đó, ông cũng tham gia chinh chiến đánh dẹp, mà chiến công lớn nhất là dẹp yên Chiêm Thành, tiến đến tận Bình Định. Hơn thế nữa, ông đã dùng chính sách "chia để trị", chia ba nước Chiêm Thành, lập ba vua để họ đánh lẫn nhau. Từ đó Chiêm Thành suy yếu, không bao giờ hồi phục được nữa, và cũng không bao giờ là mối đe doạ với Đại Việt như thời triều Trần nữa.
Lê Thánh Tông được tôn vinh là vị vua văn võ toàn tài, tài giỏi bậc nhất trong lịch sử Việt Nam.
Bản đồ Hồng Đức
Đối chiếu xưa và nay
Chùa Ngọc Hồ
Lê Thánh Tông không chỉ là vị vua văn võ toàn tài, mà còn là bậc quân tử đa tình, đã được gặp tiên.
Truyện rằng ở phía Nam hoàng thành, gần Quốc Tử Giám có chùa Ngọc Hồ là ngôi chùa đẹp, Lê Thánh Tông ngự thăm chùa. Tại đây vua gặp một người đẹp ngâm thơ, cùng đối thơ xướng hoạ, rất lấy làm hợp ý. Vua muốn đón nàng về cung, nhưng khi kiệu đi đến Cửa Nam thì cô gái biến mất. Lúc bấy giờ mới biết là gặp tiên nữ, vùa bèn cho xây một cái lầu ngoài Cửa Nam, gọi là lầu Vọng Tiên để trông ngóng.
Lầu Vọng Tiên đã bị phá lâu rồi, nhưng chùa Ngọc Hồ ngày nay vẫn còn đó, trên phố Sinh Từ (Nguyễn Khuyến). Khuôn viên đã bị thu hẹp rất nhiều, cảnh trí khác xưa nhiều lắm, nhưng vẫn còn đó câu truyện vua gặp tiên, rồi sau đó là truyện Tú Uyên gặp tiên...
Truyện rằng ở phía Nam hoàng thành, gần Quốc Tử Giám có chùa Ngọc Hồ là ngôi chùa đẹp, Lê Thánh Tông ngự thăm chùa. Tại đây vua gặp một người đẹp ngâm thơ, cùng đối thơ xướng hoạ, rất lấy làm hợp ý. Vua muốn đón nàng về cung, nhưng khi kiệu đi đến Cửa Nam thì cô gái biến mất. Lúc bấy giờ mới biết là gặp tiên nữ, vùa bèn cho xây một cái lầu ngoài Cửa Nam, gọi là lầu Vọng Tiên để trông ngóng.
Lầu Vọng Tiên đã bị phá lâu rồi, nhưng chùa Ngọc Hồ ngày nay vẫn còn đó, trên phố Sinh Từ (Nguyễn Khuyến). Khuôn viên đã bị thu hẹp rất nhiều, cảnh trí khác xưa nhiều lắm, nhưng vẫn còn đó câu truyện vua gặp tiên, rồi sau đó là truyện Tú Uyên gặp tiên...
Bích Câu đạo quán
Lê Thánh Tông không phải là người duy nhất gặp tiên ở chùa Ngọc Hồ, mà còn có chàng thư sinh Tú Uyên.
Truyện "Bích Câu kỳ ngộ" kể rằng chàng tú tài tên là Trần Uyên, nên thường gọi là Tú Uyên, văn thơ tao nhã, một lần ra chơi chùa Ngọc Hồ, ngồi nghỉ dưới gốc cây bỗng có chiếc lá đề thơ bay ngang mặt, vội nhặt lên xem, đồng thời nhìn ra thấy có người con gái rất đẹp. Tú Uyên làm quen, nói chuyện văn thơ với cô gái, đi đến tận lầu Quảng Văn thì cô gái biến mất. Tú Uyên về nhà sinh ốm tương tư.
Chàng đến đền Bạch Mã cầu xin, đêm nằm thấy thần bảo sáng ra chợ Cầu Đông mà tìm. Hôm sau ra chợ Cầu Đông, gặp ông già bán tranh, bức tranh Tố nữ vẽ y hệt người đẹp đã gặp, bèn mua về treo trong nhà, ngày ngày trò chuyện, mời cơm. Thế rồi mấy hôm sau về thấy cơm canh đã sẵn, chàng rình thì thấy cô gái từ trong tranh bước ra. Tú Uyên giữ lại, xé tranh đi, hỏi tên thì là tiên Giáng Kiều, hai người nên vợ chồng.
Nhưng có vợ rồi Tú Uyên đâm ra bê tha, chỉ thích rượu chè đàn hát. Giáng Kiều khóc rồi bay về trời. Tú Uyên hối hận đau khổ, định tự tử nên Giáng Kiều quay lại, rồi dạy chồng cách tu tiên. Về sau hai người cưỡi hạc bay về trời.
Nền nhà cũ của Tú Uyên khi xưa, ngày nay thành Bích Câu Đạo quán, là một trong hai ngôi Đạo quán của Thăng Long xưa còn giữ nguyên được, không bị đổi thành chùa.
Bích Câu đạo quán trên phố Cát Linh, xung quanh đã bị lấn chiếm làm nơi buôn bán.
Truyện "Bích Câu kỳ ngộ" kể rằng chàng tú tài tên là Trần Uyên, nên thường gọi là Tú Uyên, văn thơ tao nhã, một lần ra chơi chùa Ngọc Hồ, ngồi nghỉ dưới gốc cây bỗng có chiếc lá đề thơ bay ngang mặt, vội nhặt lên xem, đồng thời nhìn ra thấy có người con gái rất đẹp. Tú Uyên làm quen, nói chuyện văn thơ với cô gái, đi đến tận lầu Quảng Văn thì cô gái biến mất. Tú Uyên về nhà sinh ốm tương tư.
Chàng đến đền Bạch Mã cầu xin, đêm nằm thấy thần bảo sáng ra chợ Cầu Đông mà tìm. Hôm sau ra chợ Cầu Đông, gặp ông già bán tranh, bức tranh Tố nữ vẽ y hệt người đẹp đã gặp, bèn mua về treo trong nhà, ngày ngày trò chuyện, mời cơm. Thế rồi mấy hôm sau về thấy cơm canh đã sẵn, chàng rình thì thấy cô gái từ trong tranh bước ra. Tú Uyên giữ lại, xé tranh đi, hỏi tên thì là tiên Giáng Kiều, hai người nên vợ chồng.
Nhưng có vợ rồi Tú Uyên đâm ra bê tha, chỉ thích rượu chè đàn hát. Giáng Kiều khóc rồi bay về trời. Tú Uyên hối hận đau khổ, định tự tử nên Giáng Kiều quay lại, rồi dạy chồng cách tu tiên. Về sau hai người cưỡi hạc bay về trời.
Nền nhà cũ của Tú Uyên khi xưa, ngày nay thành Bích Câu Đạo quán, là một trong hai ngôi Đạo quán của Thăng Long xưa còn giữ nguyên được, không bị đổi thành chùa.
Bích Câu đạo quán trên phố Cát Linh, xung quanh đã bị lấn chiếm làm nơi buôn bán.
Rồi Đạo giáo cũng phát triển, tại Thăng Long dựng lên các đạo quán mới như Đồng Thiên, Huyền Thiên, thờ cúng kiểu tu tiên luyện thuốc. Câu truyện Lê Thánh Tông, Tú Uyên gặp tiên cũng thể hiện sự khôi phục và hưng thịnh của tư tưởng tu luyện thành tiên.
Bên cạnh đó, xuất hiện tín ngưỡng thờ Liễu Hạnh, xuất phát từ Nam Định, dần phát triển khắp nơi. Tín ngưỡng này về sau sử dụng nhánh Saman của Đạo giáo, lên đồng, cầu đảo. Đạo giáo truyền thống thì đã tàn lụi hoàn toàn ở Việt Nam, nhưng Tín ngưỡng Mẫu và lên đồng thì đến nay ngày càng phát triển.
Đền Kim Liên
Sau thời Lê Thánh Tông rực rỡ, nhà Lê suy đồi nhanh chóng. Lê Uy Mục lên ngôi liền giết ngay bà nội (là vợ Lê Thánh Tông), làm nhiều điều bạo ngược, đến nỗi bị gọi là Vua quỷ.
Lê Oanh đem quân về giết Uy Mục, tự lên làm vua tức là Lê Tương Dực, bị gọi là Vua Lợn, tham tàn chả kém vua trước. Trong sử ghi rằng Tương Dực cho làm lại thành Thăng Long, đắp thành chắn cả sông Tô Lịch, dựng tòa Cửu trùng đài hùng vĩ, sai Vũ Như Tô làm điện trăm nóc, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, dân tình kêu than.
Do đó khắp nơi lại nổi loạn, quan ngay trong triều giết Tương Dực (khi đó mới 24 tuổi), Thăng Long đại loạn, cướp phá khắp nơi. Của cải triều Lê tích trữ trong trăm năm bị cướp sạch. Chỉ vài năm sau, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, dựng lên nhà Mạc.
Tương truyền Lê Tương Dực khi khởi quân đánh Uy Mục, nằm mộng thấy thần Cao Sơn hứa phù trợ, nên sau khi lên ngôi cho dựng ngôi đền thờ ở phía Nam thành Thăng Long, tức là đền Kim Liên ngày nay (dựng mới hay trên nền ngôi miếu nhỏ cũ của làng thì cũng chưa rõ). Đến lúc này ngôi đền "trấn Nam" của Thăng Long mới được xuất hiện trong sử sách.
Tuy nhiên trong các bản đồ Thăng Long thời Trịnh sau cũng không thấy vẽ đền này, chứng tỏ cũng không phải là quan trọng. Cho nên cái thuyết "Tứ Trấn Thăng Long" có lẽ còn xuất hiện muộn nữa, có khi phải từ cuối Lê đầu Nguyễn mới có.
Đền Trấn Nam - Kim Liên, mới có từ đời Lê Tương Dực (1510)
Lê Oanh đem quân về giết Uy Mục, tự lên làm vua tức là Lê Tương Dực, bị gọi là Vua Lợn, tham tàn chả kém vua trước. Trong sử ghi rằng Tương Dực cho làm lại thành Thăng Long, đắp thành chắn cả sông Tô Lịch, dựng tòa Cửu trùng đài hùng vĩ, sai Vũ Như Tô làm điện trăm nóc, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, dân tình kêu than.
Do đó khắp nơi lại nổi loạn, quan ngay trong triều giết Tương Dực (khi đó mới 24 tuổi), Thăng Long đại loạn, cướp phá khắp nơi. Của cải triều Lê tích trữ trong trăm năm bị cướp sạch. Chỉ vài năm sau, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, dựng lên nhà Mạc.
Tương truyền Lê Tương Dực khi khởi quân đánh Uy Mục, nằm mộng thấy thần Cao Sơn hứa phù trợ, nên sau khi lên ngôi cho dựng ngôi đền thờ ở phía Nam thành Thăng Long, tức là đền Kim Liên ngày nay (dựng mới hay trên nền ngôi miếu nhỏ cũ của làng thì cũng chưa rõ). Đến lúc này ngôi đền "trấn Nam" của Thăng Long mới được xuất hiện trong sử sách.
Tuy nhiên trong các bản đồ Thăng Long thời Trịnh sau cũng không thấy vẽ đền này, chứng tỏ cũng không phải là quan trọng. Cho nên cái thuyết "Tứ Trấn Thăng Long" có lẽ còn xuất hiện muộn nữa, có khi phải từ cuối Lê đầu Nguyễn mới có.
Đền Trấn Nam - Kim Liên, mới có từ đời Lê Tương Dực (1510)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét